10:53 | 13/07/2020

Xây dựng kế hoạch quản lý hiệu quả lạnh quốc gia

Do điều kiện thực tế đặt ra nhiều thách thức mới, như nhu cầu năng lượng không ngừng tăng, các sự cố bất thường về thiên tai và truyền tải, các nguồn năng lượng truyền thống ngày càng khan hiếm... đã đặt ra áp lực không nhỏ buộc chúng ta phải tìm nhiều biện pháp hơn trong việc cắt giảm khí nhà kính và tiết kiệm năng lượng (TKNL).
108 giải pháp tiết kiệm năng lượng được đề xuất trong lĩnh vực công nghiệp
xay dung ke hoach quan ly hieu qua lanh quoc gia

Điều hòa không khí công nghệ inverter môi chất lạnh R-32 đang dần chiếm lĩnh thị trường.

Nước ta đã và đang thực hiện các cam kết giảm phát thải khí nhà kính và loại trừ các chất làm suy giảm tần ô-zôn nhằm thực hiện cam kết quốc gia khi tham gia Công ước Viên về bảo vệ tầng ô-zôn và Công ước khung Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu. Mặc dù chủ trương của Chính phủ là vậy, nhưng thực tế lại đặt ra nhiều thách thức để thực hiện những cam kết này. Theo ông Nguyễn Việt Dũng - Phó Vụ trưởng Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững - Bộ Công Thương (TKNL&PTBV), thị trường điều hòa không khí (ĐHKK) tại Việt Nam ngày càng tăng cao, cùng với đó là nhu cầu sử dụng năng lượng không ngừng tăng cũng như lượng phát thải từ các môi chất lạnh có khả năng làm nóng lên toàn cầu và phá hủy tầng ô-zôn cũng thải ra môi trường nhiều hơn.

Mục tiêu chính của Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng hiệu quả và bền vững giai đoạn 2019-2030 (VNEEP3) là cắt giảm tổng năng lượng tiêu thụ toàn quốc từ 5-7% giai đoạn đến năm 2025 và 8-10% giai đoạn đến năm 2030. Nếu đi đúng lộ trình thì đến năm 2030 chúng ta sẽ cắt giảm được khoảng 6.000 GWh/năm, tương đương khoảng 10 nghìn tỷ đồng tiền điện, và cắt giảm được khoảng 34 triệu tấn phát thải cacbon. Chính phủ cũng giao nhiệm vụ tiết kiệm năng lượng (TKNL) cho từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể, cũng như quy định vai trò, trách nhiệm thực hiện cho các Bộ, ban, ngành, địa phương. Trong đó, Bộ Công Thương đóng vai trò nòng cốt, giám sát, phối hợp và hỗ trợ các đơn vị khác thực hiện kế hoạch hành động; tham mưu cho Chính phủ kịp thời để có chính sách khuyến khích và điều chỉnh phù hợp.

Theo khảo sát sơ bộ của Bộ Công Thương, hiện nay hơn 90% thiết bị điện gia đình đang sử dụng có dán nhãn năng lượng. Lượng bóng đèn sợi đốt cũng giảm từ khoảng 50 triệu chiếc xuống dưới 6 triệu chiếc, chủ yếu chỉ còn tồn tại rải rác ở một số vùng nông thôn, vùng núi không phải điểm tiêu thụ điện trọng điểm. Hiệu suất năng lượng của ĐHKK cũng được nâng lên khoảng 13% mỗi năm và dự kiến sẽ khả quan hơn nữa khi thị trường xuất hiện thêm các dòng sản phẩm hiệu suất cao. Đây là những kết quả rất đáng khích lệ, phản ánh chủ trương và hành động đúng đắn của Chính phủ cũng như sự thay đổi tích cực của các doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Tuy nhiên, do điều kiện thực tế đặt ra nhiều thách thức mới, như nhu cầu năng lượng không ngừng tăng, các sự cố bất thường về thiên tai và truyền tải, các nguồn năng lượng truyền thống ngày càng khan hiếm... đã đặt ra áp lực không nhỏ buộc chúng ta phải tìm nhiều biện pháp hơn trong việc cắt giảm khí nhà kính và TKNL. Đây là thời điểm rất thích hợp để các bên liên quan, bao gồm các cơ quan quản lý - nghiên cứu - doanh nghiệp - người dân, cùng chung tay thực hiện các mục tiêu chung nhằm TKNL và giảm lượng khí thải trong sinh hoạt, bảo vệ tầng sinh quyển.

Tại hội thảo tham vấn Dự án xây dựng kế hoạch quản lý hiệu quả lạnh quốc gia (Dự án K-CEP), nhóm nghiên cứu kỹ thuật dự án K-CEP cho hay, thị trường ĐHKK hằng năm có mức tăng trưởng trung bình trên 25%, với năm 2019 hơn 2.5 triệu chiếc đã được tiêu thụ. Theo đó, tỷ lệ ĐHKK treo tường chiếm đa số (89,6%). Xét về công nghệ TKNL, hiện nay dòng ĐHKK sử dụng công nghệ inverter đang chiếm ưu thế với tỷ lệ 63% máy ĐHKK có trang bị công nghệ này.

Về môi chất lạnh, trong tổng số 4.015 sản phẩm ĐHKK được lấy mẫu khảo sát, có gần 1/2 sử dụng môi chất ít gây hại môi trường R-32. Các môi chất được sử dụng phổ biến lần lượt là R-410A (45%) và R-22 (6%). Tuy an toàn cho môi trường, sản phẩm sử dụng môi chất R-32 lại có giá cao hơn hẳn các sản phẩm sử dụng môi chất khác, khiến ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn của người dùng. Xét về mối liên hệ giữa môi chất lạnh và hiệu quả năng lượng, các dòng máy sử dụng công nghệ inverter và môi chất lạnh R-32 có hiệu suất năng lượng (CSPF) vượt trội, lên tới 5.36, so với dòng máy inverter khách là khoảng 4.77.

Trong vòng 5 năm tới, ĐHKK công nghệ inverter môi chất lạnh R-32 sẽ chiếm lĩnh thị trường, tăng từ 88% sản phẩm tiêu thụ hiện nay lên 99% vào năm 2027 và có thể đạt tới 100% vào những năm tiếp theo. Chỉ số CSPF trung bình của ĐHKK cũng theo đó được nâng lên từ khoảng 4.8 như hiện nay lên khoảng 5.7-6.0.

Các kịch bản TKNL và giảm phát thải cho ĐHKK được đề xuất là tăng MEPS và cấp sao lên 20% so với hiện nay. Nếu theo kịch bản này, đến năm 2030 có thể giảm khoảng 6.74% mức tiêu thụ điện ĐHKK, tương đương 2.27 TWh. Lượng phát thải ước tính giảm 2.23 MT khí cacbon.

Dự án K-CEP do Vụ TKNL&PTBV (Bộ Công Thương) phối hợp với Cục Biến đổi Khí hậu (Bộ TN&MT) thực hiện, do WB tài trợ, nhằm xây dựng Kế hoạch TKNL trong lĩnh vực lạnh quốc gia (Kế hoạch Hành động Lạnh Quốc gia) trong lĩnh vực ĐHKK dân dụng. Hợp phần 2: Chuyển giao Công nghệ, tập trung hỗ trợ các nhà sản xuất trong nước tiếp cận công nghệ sản xuất R-32, điều hòa biến tần.

Mai Hoa

Đường dẫn bài viết: https://congnghiepmoitruong.vn/xay-dung-ke-hoach-quan-ly-hieu-qua-lanh-quoc-gia-6420.html

In bài viết