22:23 | 14/12/2021

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân

Tư tưởng và quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân vô cùng sâu sắc và là hạt nhân cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó chứa đựng những giá trị to lớn về cả phương diện lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam; là cẩm nang để sự nghiệp đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ quốc tế đi tới thành công.

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân không những có ý nghĩa lịch sử mà còn cung cấp cho chúng ta những kinh nghiệm quý báu để tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức thực sự là công bộc của dân, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đấu tranh loại bỏ những thói hư, tật xấu trong bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích của nhân dân, đảm bảo cho nhà nước luôn giữ được bản chất cách mạng, từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, xây dựng nhà nước kiểu mới ở nước ta. Mặc dù trong di sản lý luận của Người không đề cập đến khái niệm nhà nước pháp quyền nói chung và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng, nhưng xét về nội dung khoa học của tư tưởng, quan điểm về nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại thì những tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật kiểu mới – nhà nước xã hội chủ nghĩa – đã thể hiện khá đầy đủ, sâu sắc những đặc trưng, nội dung cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Quan điểm, tư tưởng của Người về nhà nước pháp quyền thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin với kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kho tàng tri thức, kinh nghiệm của nhân loại, vận dụng sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam.

1. Về bản chất giai cấp của nhà nước kiểu mới

Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới, có bản chất giai cấp sâu sắc và bản chất dân chủ thực sự, là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân.

Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh và phân tích cụ thể bản chất giai cấp của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Người khẳng định giai cấp công nhân, Đảng của giai cấp công nhân có vai trò là người lãnh đạo nhà nước và xã hội. Vì thế, bản chất giai cấp của nhà nước xã hội chủ nghĩa thể hiện ỏ chỗ nhà nước xã hội chủ nghĩa phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. phải thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Người cho rằng: sở dĩ giai cấp công nhân có vai trò lãnh đạo là do nó có "đặc tính cách mạng" (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr.212). "Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr.212, 217).

2. Nhà nước kiểu mới là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân

Bên cạnh việc nhấn mạnh tính giai cấp của nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ trong nhà nước ấy tính giai cấp hòa quyện với tính nhân dân và tính dân tộc. “Trong nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa của chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân, tức là của giai cấp công, nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Bốn giai cấp ấy do giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy công nông liên minh làm nền tảng, đoàn kết các giai cấp dân chủ và các dân tộc trong nước, để thực hành dân chủ chuyên chính”, “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr.217, 218).

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề đặt ra là làm sao để tất cả quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân, nhân dân thực sự là người làm chủ nhà nước và xã hội. Để nhân dân thực hiện được quyền lực của mình thì phải giác ngộ để họ ý thức được quyền làm chủ của mình. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nhà nước ta ngày nay là của tất cả những người lao động. Vậy công nhân, nông dân, trí thức cách mạng cần nhận rõ rằng: hiện nay, nhân dân lao động ta là những người làm chủ nước ta, chứ không phải là những người làm thuê cho giai cấp bóc lột như thời cũ nữa. Chúng ta có quyền và có đủ điều kiện để tự tay mình xây dựng đời sống tự do, hạnh phúc cho mình... Đã là người chủ nhà nước thì phải chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà... Đã là người chủ thì phải biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.10, tr.310).

Từ những tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặt ra vấn đề là phải xây dựng những thiết chế mới bảo đảm cho nhân dân thực hiện quyền dân chủ của họ trong xây dựng nhà nước, trong quản lý nhà nước và xã hội. Phải làm sao để nhân dân có thực quyền, khắc phục được dân chủ hình thức.

3. Nhà nước kiểu mới là nhà nước hợp hiến, hợp pháp, thực hiện quản lý xã hội theo pháp luật và kết hợp chặt chẽ với giáo dục tư tưởng, đạo đức

Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy được tầm quan trọng của tính hợp pháp của nhà nước, vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội và hoạt động của nước, nhất là trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân. Trong nhận thức và trong hành động, Hồ Chí Minh đã thể hiện được sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng đức trị và pháp trị.

Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, trong tình thế cách mạng gặp muôn vàn khó khăn, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng lãnh đạo thực hiện Tổng Tuyển cử bầu Quốc hội để có cơ sở xây dựng Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam – tạo cơ sở pháp lý cao nhất trong hoạt động đối nội và đối ngoại, khẳng định sự ra đời hợp hiến của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước cộng đồng quốc tế.

Trong quá trình lãnh đạo xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã ký hơn 60 sắc lệnh, chỉ đạo soạn thảo Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức hoạt động của nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.

Trong công tác lãnh đạo nhà nươc quản lý xã hội theo pháp luật, tăng cường pháp chế, Hồ Chí Minh coi trọng các biện pháp phòng người, răn đe hơn là trừng trị, “phòng bệnh” hơn “chữa bệnh”. Trong bài nói chuyện với cán bộ ngành tư pháp năm 1951, Hồ Chí Minh đã nói: xét xử công minh, kịp thời là tốt, nhưng làm sao để không phải xét xử hoặc xét xử ngày càng ít đi thì tốt hơn. Từ quan điểm đó, Người chỉ đạo tăng cường các biện pháp phổ biến, tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn thực hiện pháp luật, giáo dục tư tưởng, đạo đức cho cán bộ, công chức.

Hồ Chí Minh luôn luôn thể hiện tình cảm thương yêu, độ lượng, nhưng cũng thể hiện rất rõ thái độ nghiêm khắc đối với các khuyết điểm và vi phạm của cán bộ, công chức. Người khuyến khích, động viên và thể hiện thái độ khoan hồng với những người có khuyết điểm, có vi phạm nhưng biết tự phê bình, ăn năn, hối cải, quyết tâm sửa chữa; mặt khác, Người nghiêm khắc xử lý đối với những người không thật thà sửa chữa khuyết điểm.

Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm đến vấn đề xây dựng pháp luật, quản lý xã hội theo pháp luật mà còn quan tâm đến nội dung của pháp luật, bảo đảm pháp luật trong nhà nước kiểu mới là pháp luật dân chủ, thể hiện được tự do, ý chí và lợi ích của nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Luật pháp của chúng ta… là ý chí của giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng… pháp luật của ta hiện nay bảo vệ quyền lợi của hàng triệu người lao động… pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Mặt khác, Người cũng nói rõ “giới hạn” của tự do, dân chủ rộng rãi, tự do ở đây sẽ là tự do trong kỷ luật, không phải là tự do vô chính phủ: “Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức mà phạm đến tự do của người khác là phạm pháp”.

4. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước vì dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân, bảo đảm cho công dân làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội

Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định: “chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân dân. Chính phủ chỉ có một mục đích là: hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr.499, 572).

Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm, nhắc nhở các cơ quan của Đảng, Nhà nước phải hết sức chăm lo đến đời sống của nhân dân, lãnh đạo tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm…

Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh trách nhiệm pháp lý của nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước nếu không làm tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Người chỉ rõ: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”.

5. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước trong sạch; ngăn chặn, loại trừ được quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước

Hồ Chí Minh thấy rõ những căn bệnh này đe dọa sinh mệnh của Đảng, của nhà nước kiểu mới và chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng là giặt nội xâm, là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội.

Sự quan tâm lo lắng đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với việc đấu tranh tẩy trừ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các căn bệnh khác trong bộ máy nhà nước kiểu mới được chứng minh trên những điểm sau đây:

Một là, Trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Hồ Chí Minh đã dành bài học đầu tiên là “Tư cách một người cách mệnh” để huấn luyện cán bộ, trong đó chú ý đến đạo đức và những phẩm chất của người cán bộ cách mạng.

Hai là, trong quá trình lãnh đạo xây dựng nhà nước, Hồ Chí Minh nhận thấy những căn bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí và tiêu cực khác đã phát sinh trong bộ máy nhà nước kiểu mới. Ngày 17/10/1945, trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng”, Người nhắc nhở: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr.56-57). Trong thư, Người đã nhắc nhở những căn bệnh mới xuất hiện và cần phải khắc phục là: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người nhấn mạnh: “Ai đã phạm những lỗi lầm trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr.58).

Ba là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết nhiều tác phẩm để đề cập đến vấn đề đạo đức, phẩm chất của cán bộ như: Sửa đổi lối làm việc (1947), Phải tẩy sạch bệnh quan liêu (02/9/1950), Cần phải tấy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh (02/9/1951), Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu (1952), Chống quan liêu, tham ô, lãng phí (31/7/1952), Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (03/02/1969)…

Bốn là, trong hầu hết các bài nói, bài viết Hồ Chí Minh đều đề cập đến vấn đề đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của đội ngũ cán bộ.

Từ những dẫn chứng nêu trên thấy vấn đề đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác quan trọng như thế nào trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

6. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước kiểu mới

Đây là vấn đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Người cho rằng: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.269), ‘Muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém. Đó là một chân lý nhất định” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.240). Trong vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh những vấn đề chủ yếu sau đây:

Một là, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.

Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò quan trọng của công tác đào tạo huấn luyện cán bộ. Người cho rằng: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Công việc gốc có nghĩa là công việc phải làm đầu tiên, thường xuyên, lâu dài, có tầm nhìn chiến lược.

Hai là, về công tác lựa chọn, đánh giá, sử dụng và chính sách đối với cán bộ, công chức.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác lựa chọ, đánh giá, sử dụng cán bộ, công chức, Người chỉ ra: Phải biết rõ cán bộ, phải cất nhắc cán bộ cho đúng, phải khéo dùng cán bộ, phải phân phối cán bộ cho đúng, phải giúp cán bộ cho đúng, phải giữ gìn cán bộ.

7. Nhà nước kiểu mới phải có biện pháp kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong hoạt động của bộ máy nhà nước kiểu mới, việc kiểm tra, giám sát là yêu cầu khách quan. Nó giúp phát hiện mặt xấu, mặt tốt của chủ trương, chính sách; ngăn chặn khuyết điểm, biểu dương ưu điểm của cán bộ, theo dõi việc thi hành chính sách, pháp luật.

Ngay từ đầu của chính quyền cách mạng, ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt với nhiệm vụ thanh tra tất cả các công việc và các nhân viên của Ủy ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ. Người nhấn mạnh: “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành không; thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm bớt đi… 1. Có kiểm soát như thế mới biết rõ cán bộ và nhân viên tốt hay xấu. 2. Mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các cơ quan. 3. Mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các mệnh lệnh và nghị quyết” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.276-277, 287-288). Người còn chỉ rõ muốn kiểm soát có kết quả tốt “việc kiểm soát phải có hệ thống, phải thường làm…”, “người đi kiểm soát phải là những người rất có uy tín” và “không phải cứ ngồi trong phòng giấy mà chờ người báo cáo, mà phải đi tận nơi, xem tận chỗ” kết hợp kiểm soát “từ dưới lên” và “từ trên xuống” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.276-277, 287-288).

Với những tư tưởng và quan điểm trên, Hồ Chí Minh chỉ rõ thanh tra, kiểm tra, giám sát trong nhà nước kiểu mới không chỉ là để xử lý vi phạm mà chủ yếu là sửa chữa khuyết điểm, là “tai mắt” của trên, là “người bạn” của dưới.

Nhà nước kiểu mới theo quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhà nước do toàn thể nhân dân lập nên; là một nhà nước hoàn toàn hợp hiến, hợp pháp; là nhà nước mà quyền lực của nó bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân ủy thác, chứ không phải bắt nguồn từ lực lượng siêu nhiên chúa trời hay từ lý trí tối cao; là một nhà nước lấy quyền và lợi của nhân dân, lấy sự tự do và hạnh phúc của nhân dân làm nhiệm vụ hoạt động và làm lý do tồn tại của mình. Nhà nước không có mục mục đích tự thân nào, mà chỉ là công cụ phục vụ nhân dân, phục vụ yêu cầu phát triển của xã hội.

Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới thể hiện kết tinh, tinh hoa của nhân loại trong lĩnh vực này với chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Những tư tưởng, quan điểm đó là di sản lý luận vô giá của cách mạng Việt Nam, đồng thời có giá trị phổ biến đối với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ. Chủ nghĩa Mác – Lênin và tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng ta, vì vậy chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt, vận dụng đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay.

Trần Như Chung

Đường dẫn bài viết: https://congnghiepmoitruong.vn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-nha-nuoc-cua-dan-do-dan-vi-dan-7890.html

In bài viết