Quy hoạch điện VIII và những nỗ lực đảm bảo an ninh năng lượng

17/05/2023 15:19 Chính sách - Pháp luật
Ngày 15/5, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà ký Quyết định 500/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII).

Theo đó, Quy hoạch điện VIII quy hoạch phát triển nguồn điện và lưới điện truyền tải ở cấp điện áp từ 220 kV trở lên, công nghiệp và dịch vụ về năng lượng tái tạo, năng lượng mới trên lãnh thổ Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, bao gồm cả các công trình liên kết lưới điện với các quốc gia láng giềng.

Quy hoạch điện VIII đặt ra mục tiêu bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Quy hoạch điện VIII và những nỗ lực đảm bảo an ninh năng lượng
Quy hoạch điện VIII: Thay thế dần ảnh hưởng của nhiệt điện là vấn đề cấp thiết và cần được nghiên cứu kỹ lưỡng.

Ngoài ra, thực hiện thành công chuyển đổi năng lượng công bằng gắn với hiện đại hóa sản xuất, xây dựng lưới điện thông minh, quản trị hệ thống điện tiên tiến, phù hợp với xu thế chuyển đổi xanh, giảm phát thải, phát triển khoa học công nghệ của thế giới.

Đồng thời, hình thành hệ sinh thái công nghiệp năng lượng tổng thể dựa trên năng lượng tái tạo, năng lượng mới.

Mục tiêu đến 2030, 50% tòa nhà công sở và nhà dân sử dụng điện mặt trời

Cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm trong giai đoạn 2021 – 2030, khoảng 6,5 – 7,5%/năm trong giai đoạn 2031 – 2050;

Bảo đảm cung cấp điện an toàn, tin cậy, đáp ứng tiêu chí N-1 đối với vùng phụ tải quan trọng và N-2 đối với vùng phụ tải đặc biệt quan trọng. Đến năm 2030, độ tin cậy cung cấp điện năng thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN, chỉ số tiếp cận điện năng thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN;

Phấn đấu đến năm 2030 có 50% tòa nhà công sở và 50% nhà dân sử dụng điện mặt trời mái nhà tự sản, tự tiêu (phục vụ tiêu thụ tại chỗ, không bán điện vào hệ thống điện quốc gia).

Chuyển đổi năng lượng công bằng, phát triển hệ sinh thái công nghiệp và dịch vụ năng lượng tái tạo.

Phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện, đạt tỷ lệ khoảng 30,9 – 39,2% vào năm 2030. Định hướng đến năm 2050 tỷ lệ năng lượng tái tạo lên đến 67,5 – 71.5%;

Kiểm soát mức phát thải khí nhà kính từ sản xuất điện đạt khoảng 204 – 254 triệu tấn năm 2030 và khoảng 27 – 31 triệu tấn vào năm 2050;

Xây dựng hệ thống lưới điện thông minh, đủ khả năng tích hợp, vận hành an toàn hiệu quả nguồn năng lượng tái tạo quy mô lớn.

Dự kiến đến 2030, hình thành 02 trung tâm công nghiệp, dịch vụ năng lượng tái tạo liên vùng tại các khu vực có nhiều tiềm năng như Bắc Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Bộ khi có các điều kiện thuận lợi;

Phát triển các nguồn điện từ năng lượng tái tạo và sản xuất năng lượng mới phục vụ xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2030, quy mô công suất xuất khẩu điện đạt khoảng 5.000 - 10.000 MW.

Ưu tiên phát triển các nguồn năng lượng tái tạo.

Điểm mới trong quy hoạch điện 8 là ưu tiên phát triển khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện. Năng lượng tái tạo (tính cả thủy điện) sẽ chiếm khoảng 31%-39%, điện năng sản xuất trong hệ thống dự kiến tăng lên khoảng 67,5%-71,5% vào 2050.

Đồng thời, đối với điện than, chỉ thực hiện các dự án đã có trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh và đang đầu tư xây dựng đến năm 2030. Các nhà máy nhiệt điện than định hướng sau tuổi thọ kỹ thuật (khoảng 40 năm) sẽ dừng vận hành nếu không thể chuyển đổi nhiên liệu. Đối với các nhà máy nhiệt điện đã vận hành được 20 năm thực hiện chuyển đổi nhiên liệu sang sinh khối và ammoniac khi giá thành phù hợp.

Cơ cấu sử dụng nguồn điện than sẽ giảm xuống. Tới năm 2050 sẽ không còn sử dụng điện than để cung cấp cho lưới điện quốc gia. Đề xuất các phương án thay thế việc sử dụng than để phát điện sang sử dụng hoàn toàn nhiên liệu sang sinh khối và ammoniac.

Đối với điện khí ưu tiên sử dụng tối đa khí trong nước cho phát triển điện. Trong trường hợp sản lượng khí thải trong nước suy giảm thì nhập khẩu bổ sung bằng khí thiện nhiên hoặc LNG. Thực hiện lộ trình chuyển đổi nhiên liệu sang hydro khi công nghệ được thương mại hóa và giá thành phù hợp.

Với điện mặt trời, điện gió, xác định ưu tiên phát triển mạnh điện gió trên bờ và điện gió ngoài khơi.

Đầu tư phát triển các nguồn điện linh hoạt (nguồn khởi động nhanh) để điều hòa phụ tải, duy trì ổn định hệ thống điện để hấp thụ nguồn điện năng lượng tái tạo quy mô lớn. Năm 2030, dự kiến phát triển 300MW. Đến năm 2050 leend dến 30.900 – 46.200 MW.

Mặt khác, ưu tiên phát triển không giới hạn công suất điện từ năng lượng tái tạo phục vụ xuất khẩu, sản xuất năng lượng mới trên cơ sở bảo đảm an ninh năng lượng và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Mục tiêu đến 2030 quy mô công suất xuất khẩu điện đạt khoảng 5.000 – 10.000 MW.

Ngoài ra, Quyết định 500/QĐ-TTg năm 2023 cũng ước tính nhu cầu vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải cần khoảng 134,7 tỷ USD cho giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2030.

Giai đoạn 2031-2050, ước tính nhu cầu vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải mà Việt Nam cần khoảng 399,2 - 523,1 tỷ USD.

Nguyễn Quang
Xin chờ trong giây lát...

Chương trình Diễn đàn kinh tế xanh vì một quốc gia phát triển bền vững

Phiên bản di động