Chỉ được nuôi tối đa 1.020 con heo trên mỗi km2?

30/08/2019 09:34 Tăng trưởng xanh
Theo dự thảo mới của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, khu vực có mật độ chăn nuôi lớn nhất là Đồng bằng sông Hồng cũng chỉ được phép nuôi tối đa 1.020 con heo trên mỗi km2, trong điều kiện không nuôi thêm bất kỳ loại vật nuôi nào khác.
Hà Nội: Xử lý nghiêm việc chăn nuôi xả thải vào công trình thủy lợi Hoàn thiện Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với nước thải chăn nuôi Sử dụng đèn LED trong chăn nuôi gia cầm: Tăng năng suất, giảm chi phí tiền điện
chi duoc nuoi toi da 1020 con heo tren moi km2
Ảnh minh họa

Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), nhiều doanh nghiệp e ngại liệu đây có phải là sự can thiệp quá mức của Nhà nước vào thị trường, không phù hợp với các quy luật thị trường hay không?

Trong văn bản góp ý với dự thảo Nghị định hướng dẫn chi tiết và biện pháp thi hành Luật Chăn nuôi, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc về nhiều nội dung, trong đó có việc quy định mật độ chăn nuôi của các vùng tại phụ lục VI.

Dựa trên phụ lục này, các tỉnh, thành phố sẽ ban hành quy định về mật độ chăn nuôi cho địa phương mình (chưa rõ có chi tiết đến cấp quận/huyện, xã/phường không?). Do diện tích của các vùng sinh thái hầu như không thay đổi, diện tích các tỉnh, thành phố cũng không đổi, nên bản chất quy định này được hiểu sẽ giới hạn số lượng bao nhiêu con heo, bao nhiêu con gà được nuôi tại mỗi đơn vị hành chính.

VCCI phân tích, về bản chất, với cách quy định về mật độ chăn nuôi tại Phụ lục VI hiện nay có thể không khác với quy hoạch chăn nuôi trước đây, được lập để xác định vùng nào được nuôi bao nhiêu, con gì. Thậm chí, quy hoạch chăn nuôi trước đây chỉ mang tính tham khảo, định hướng thì quy định này mang tính bắt buộc thông qua việc cấp phép cho các trang trại phải phù hợp với mật độ chăn nuôi.

Lưu ý rằng, quy hoạch chăn nuôi đã được bãi bỏ bởi Điều 13.2 của Luật Quy hoạch, cấm các quy hoạch "về đầu tư phát triển hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm cụ thể, ấn định khối lượng, số lượng hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm được sản xuất, tiêu thụ". Quy định tại Điều 13.2 của Luật Quy hoạch nhằm mục đích hạn chế sự can thiệp của Nhà nước vào các quyết định của thị trường. Việc sản xuất khối lượng, số lượng hàng hoá bao nhiêu nên để thị trường quyết định tốt hơn là Nhà nước quyết định.

Như vậy, cần cân nhắc lại quy định tại Phụ lục VI của dự thảo, dường như đang có dấu hiệu trái với tinh thần của Luật Quy hoạch.

Ngoài ra, theo VCCI, một số địa phương cũng phản ánh tình trạng giới hạn mật độ chăn nuôi như vậy là quá thấp. Chẳng hạn như Đồng Nai hiện nay, theo quy định này thì sẽ không được phép mở thêm trang trại mới, trong khi tiềm năng phát triển kinh tế chăn nuôi ở Đồng Nai vẫn còn rất lớn do ở đây rất thuận lợi về giao thông.

"Thậm chí, nếu theo Phụ lục VI dự thảo thì khu vực có mật độ chăn nuôi lớn nhất là Đồng bằng sông Hồng cũng chỉ được phép nuôi tối đa 1.020 con heo (hoặc 458 con trâu hoặc 507 con bò thịt hoặc 250 con bò sữa) trên mỗi km2 trong điều kiện không nuôi thêm bất kỳ loại vật nuôi nào khác" - VCCI phân tích.

Nếu cho rằng việc quản lý mật độ chăn nuôi như tại Phụ lục VI là nhằm bảo vệ môi trường hoặc phòng dịch bệnh thì cũng không hợp lý. Vì việc bảo vệ môi trường và phòng dịch bệnh hoàn toàn có thể được thực hiện bằng rất nhiều biện pháp kỹ thuật khác (như khoảng cách an toàn, biện pháp phòng dịch) chứ không nên áp dụng biện pháp ấn định số lượng vật nuôi tại mỗi địa phương.

Tần suất kiểm tra quá dày

Một quy định khác trong dự thảo khiến VCCI lo ngại là quy định tần suất kiểm tra duy trì điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi 12 tháng một lần. Trong khi hiện nay, Chính phủ đang có chủ trương cắt giảm số lần thanh kiểm tra doanh nghiệp theo kế hoạch. Chỉ thị 20 của Thủ tướng yêu cầu: "Khi xây dựng, phê duyệt kế hoạch thanh tra hàng năm không để xảy ra tình trạng thanh tra, kiểm tra quá 01 lần/năm đối với doanh nghiệp". Trường hợp có sự trùng lặp về kế hoạch thanh tra, kiểm tra thì các cơ quan nhà nước phối hợp với nhau để tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành.

Như vậy, tần suất kiểm tra 12 tháng một lần của dự thảo là quá dày, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo quy định giãn khoảng cách. Hơn nữa, cần nghiên cứu áp dụng biện pháp quản lý rủi ro khi thanh tra, kiểm tra. Ví dụ, doanh nghiệp nào có kết quả kiểm tra trước đó tốt thì tần suất kiểm tra sau đó ít hơn, doanh nghiệp nào có kết quả kiểm tra trước đó không tốt thì tần suất kiểm tra cao hơn.

Cũng theo phân tích của VCCI, dự thảo có quy định về danh mục vật nuôi khác được phép nuôi. Tuy nhiên, đây là phương pháp quản lý chọn cho, người dân và doanh nghiệp chỉ được phép làm những gì pháp luật cho phép. Phương pháp quản lý này vừa gây rủi ro rất lớn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường vừa cản trở đến sự sáng tạo, khả năng phát triển những hình thức chăn nuôi mới, những loài vật nuôi mới.

"Chỉ cần cơ quan quản lý quên một loại vật nuôi nào đó sẽ khiến toàn bộ hoạt động của các cá nhân, tổ chức trên thực tế trở thành bất hợp pháp. Ví dụ, hiện nay trong danh mục này không có loài trùn quế, điều này khiến cho toàn bộ hoạt động nuôi trùn quế hiện nay là bất hợp pháp và các cá nhân, tổ chức đã đầu tư nuôi trùn quế có thể sẽ bị mất trắng tài sản hoặc lâm vào nợ nần bất kỳ lúc nào" - VCCI phân tích.

Trường hợp một cá nhân, tổ chức nào đó phát hiện ra cơ hội kinh doanh mới, nuôi một loài sinh vật mới cho giá trị kinh tế cao nhưng không có trong danh mục thì sẽ không thể tiến hành kinh doanh. Như vậy sẽ làm mất cơ hội phát triển của nền kinh tế Việt Nam.Ví dụ, hiện nay có nhiều người thử nghiệm nuôi côn trùng để làm thức ăn chăn nuôi cho heo, gà, thuỷ sản và có nhiều hứa hẹn thành công.

Ngoài ra, Chương VI (từ Điều 24 đến Điều 26) của dự thảo quy định về sản phẩm xử lý chất thải chăn nuôi. Hiện nay, việc quản lý các chế phẩm sinh học trong xử lý chất thải đã được quy định tại Nghị định 60/2016/NĐ-CP. Các quy định tại dự thảo này chồng chéo rất nhiều với quy định tại Nghị định 60/2016/NĐ-CP.

Theo VCCI, điều này khiến các cơ sở sản xuất chế phẩm sinh học xử lý chất thải chăn nuôi sẽ phải cùng lúc đáp ứng hai nhóm quy định, gây tốn kém và không cần thiết. Theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp và chuyên gia, trong các sản phẩm xử lý chất thải thì chỉ có các chế phẩm sinh học mới có nguy cơ lớn ảnh hưởng đến môi trường, còn các sản phẩm vô cơ thì nguy cơ này rất thấp. Do đó, việc quản lý tập trung vào các chế phẩm sinh học là phù hợp. VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ nội dung này trong dự thảo, toàn bộ công tác quản lý các loại chế phẩm sinh học xử lý chất thải sẽ được áp dụng chung theo pháp luật về bảo vệ môi trường.

VCCI cũng kiến nghị bãi bỏ nhiều nội dung như mẫu số 05.TACN về đơn đề nghị nhập khẩu thức ăn chăn nuôi yêu cầu doanh nghiệp phải kê khai cả thời gian xuất/nhập khẩu và cửa khẩu xuất/nhập; hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi yêu cầu cơ sở chăn nuôi nộp bản sao (chứng thực) văn bản chứng minh chủ sở hữu được sử dụng đất để xây dựng trang trại chăn nuôi; mẫu đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi yêu cầu có sự xác nhận của UBND về chủ trang trại và lĩnh vực sản xuất…
Theo VGP
Xin chờ trong giây lát...

Chương trình Diễn đàn kinh tế xanh vì một quốc gia phát triển bền vững

Phiên bản di động