Phát triển kinh tế tuần hoàn: Xu hướng thế giới và định hướng chính sách tại Việt Nam

30/09/2024 11:00 Doanh nghiệp - Doanh nhân
Vừa qua, tại Hải Phòng, trong khuôn khổ Dự án toàn cầu “Thúc đẩy kinh tế tuần hoàn nhằm bảo vệ khí hậu và môi trường biển - Go Circular” do Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển Liên bang Đức (BMZ) ủy nhiệm cho Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức GIZ thực hiện, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức Diễn đàn "Phát triển kinh tế tuần hoàn: Xu hướng thế giới và định hướng chính sách tại Việt Nam”.
Phát triển kinh tế tuần hoàn: Xu hướng thế giới và định hướng chính sách tại Việt Nam

Diễn đàn nhằm đánh giá những kết quả đạt được, phân tích những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của việc thúc đẩy phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn (KTTH) tại Việt Nam kể từ khi Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 07/6/2022 phê duyệt Đề án phát triển KTTH ở Việt Nam được ban hành.

Diễn đàn cũng tập trung cập nhật những diễn biến chính sách mới trên thế giới, thảo luận về cách thức điều phối, phối hợp hành động để xây dựng chỉ số và tiêu chí KTTH cụ thể, khả thi, phù hợp với thực tiễn cũng như những giải pháp đột phá nhằm thúc đẩy phát triển mô hình KTTH tại Việt Nam.

Thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho biết, thực tiễn công cuộc đổi mới trong gần 40 năm qua cho thấy, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, đặc biệt, việc tăng trưởng GDP đạt được ở mức khá, quy mô nền kinh tế liên tục được mở rộng, thu nhập bình quân đầu người được cải thiện đáng kể.

Mặc dù vậy, Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức không nhỏ về cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường. Những thách thức này trở nên phức tạp hơn khi Việt Nam đang tiếp tục quá trình gia tăng dân số, đô thị hóa và công nghiệp hóa. Những thách thức đó đòi hỏi Việt Nam phải hành động nhanh hơn, chuyển động mạnh mẽ hơn từ cách tiếp cận kinh tế tuyến tính, truyền thống sang cách tiếp cận bền vững, tuần hoàn và Việt Nam đã chủ động đề ra nhiều giải pháp thích ứng, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hâu, cụ thể hóa mục tiêu cam kết mạnh mẽ tại Hội nghị COP 26 đưa mức phát thải ròng về "0" vào năm 2050.

Ngay từ đầu những năm 2020, Việt Nam đã chủ động nghiên cứu, xác định chủ trương, tư duy, định hướng và các nhiệm vụ phát triển kinh tế tuần hoàn (KTTH). Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 07/06/2022 phê duyệt Đề án Phát triển KTTH ở Việt Nam, qua đó khẳng định việc chủ động phát triển KTTH là tất yếu, phù hợp với xu hướng, yêu cầu đột phá trong phục hồi kinh tế và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, góp phần thúc đẩy, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng hiện đại, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh và khả năng chủ động, thích ứng, chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài, hiện thực hóa Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và tầm nhìn 2030, đảm bảo quốc phòng an ninh.

Sau hơn 2 năm thực hiện, nhiều nhiệm vụ đã được triển khai và mang lại những kết quả tích cực góp phần thúc đẩy, hiện thực hóa phát triển KTTH tại Việt Nam. Các doanh nghiệp đã tăng cường đầu tư vào phát triển các năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng điện gió, năng lượng điện sinh khối, nhiều mô hình tận dụng phế phẩm, phụ phẩm, trong sản xuất được áp dụng, nhiều ngành đã thực hiện tái chế phế liệu, rác thải sinh hoạt và rác thải công nghiệp như tái chế giấy vụn, đồ nhựa, sắt thép,…

Tuy vậy, thực tiễn cho thấy một số nhiệm vụ triển khai còn chậm, các chính sách liên quan đến KTTH còn chưa hoàn thiện thống nhất và đồng bộ ở cấp Trung ương và địa phương dẫn đến khó khăn trong việc thực thi. Bên cạnh đó, nguồn lực cho phát triển KTTH còn thiếu, việc tiếp cận các nguồn lực còn hạn chế. Thực tiễn đó đòi hỏi Việt Nam phải ban hành và thực hiện các chính sách dài hạn nhằm khuyến khích, ưu đãi, tạo điều kiện hơn nữa cho phát triển KTTH gắn với lộ trình, kết quả cụ thể, đồng thời hoàn thiện cơ sở pháp lý vững chắc, tạo dựng sự linh hoạt, chủ động nhằm sớm phát huy mô hình KTTH với cấp độ phù hợp theo các ngành, lĩnh vực và địa phương.

Trao đổi tại Diễn đàn, TS. Michaela Baur, Giám đốc Quốc gia GIZ tại Việt Nam nhấn mạnh: KTTH là một phần thiết yếu của nền kinh tế xanh và đóng góp vào chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam. Do đó, việc xây dựng các Dự thảo Nghị định về cơ chế thử nghiệm phát triển KTTH và dự thảo Kế hoạch hành động Quốc gia thực hiện KTTH cũng như nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam đang chủ động theo đuổi các phương pháp tiếp cận tuần hoàn, là những ví dụ tiêu biểu về sự thúc đẩy nền KTTH tại Việt Nam.

Mong muốn chia sẻ các kinh nghiệm của Đức trong cả khu vực nhà nước và tư nhân, những thách thức và giải pháp cho KTTH để Việt Nam có thể phát triển mô hình riêng cho mình, TS. Michaela Baur nhận định: mỗi quốc gia và mỗi lĩnh vực đều cần chính sách KTTH phù hợp với thực tế của nền kinh tế, do đó thay mặt Chính phủ Đức, GIZ mong muốn tăng cường quan hệ hợp tác toàn cầu trong lĩnh vực KTTH, nguyên liệu thô và tái chế. Là quốc gia sản xuất và là đối tác thương mại quan trọng của Đức và Liên minh châu Âu, với khu vực kinh tế tư nhân năng động dưới sự lãnh đạo quyết tâm cao của Chính phủ, Việt Nam có tiềm năng lớn để trở thành trung tâm sản xuất xanh, tái chế, sửa chữa và thiết kế lại các sản phẩm và dịch vụ trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Nâng cao nhận thức và kỹ năng thực hiện các mô hình kinh tế tuần hoàn

Báo cáo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương cho thấy, việc triển khai Đề án phát triển KTTH ở Việt Nam đạt được những kết quả nổi bật. Đó là hoàn thiện hệ thống thể chế, pháp luật về phát triển KTTH với cách tiếp cận dựa vào thị trường, tôn trọng các nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường ngày càng được nhất quán và đồng bộ, qua đó góp phần cụ thể hóa các chủ trương, định hướng về phát triển KTTH. Nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp và người dân về lợi ích của KTTH cũng như yêu cầu, áp lực và động lực đổi mới cho khu vực sản xuất, cung ứng các dịch vụ trong nền kinh tế. Thúc đẩy sự ra đời và phát triển của của các sáng kiến/mô hình KTTH trên thực tiễn trong các lĩnh vực: sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và năng lượng, thương mại và dịch vụ. Bước đầu hình thành các thị trường mới về hàng hóa và dịch vụ môi trường, nguyên liệu thứ cấp, các sản phẩm thân thiện môi trường, việc làm xanh,… đặc biệt là thị trường vốn cho KTTH. Đến ngày 30/6/2024, 50 tổ chức tín dụng đã báo cáo phát sinh dư nợ tín dụng xanh đạt 650,3 nghìn tỷ đồng trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm trên 45%) và nông nghiệp xanh (chiếm gần 30%), góp phần bảo vệ môi trường, thực hiện tốt công tác quản lý rác thải với quan điểm phải tận dụng được tối đa giá trị tài nguyên của rác thải; giải quyết tốt bài toán hài hòa giữa bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội…

Bên cạnh kết quả đạt được, báo cáo cũng chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân trong qúa trình triển khai thực hiện Đề án. Nhận thức về KTTH còn nhiều hạn chế. Nhận thức của người nông dân, doanh nghiệp, HTX, người tiêu dùng về KTTH chưa đầy đủ, thiếu nhận thức và hiểu biết về KTTH ở cấp quản lý, sản xuất và tiêu dùng. Hệ thống thể chế, quy định, chính sách cho phát triển KTTH cũng còn nhiều hạn chế. Hệ thống pháp luật về KTTH còn phân tán. Tính hiệu lực, hiệu quả của các quy định pháp luật còn hạn chế. Cơ chế chính sách đặc thù, thử nghiệm cho phát triển KTTH chưa được ban hành. Việc tiếp cận KTTH và các biện pháp thúc đẩy KTTH trong khu vực và trên thế giới thiếu đồng nhất. Khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực tài chính cho phát triển KTTH. Việc đầu tư vào các ngành/lĩnh vực xanh, KTTH thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn. Việc thúc đẩy kinh tế xanh, KTTH, tín dụng xanh sẽ khiến các tổ chức tín dụng phát sinh chi phí để đầu tư xây dựng hệ thống quản trị phù hợp, nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ ngân hàng. Cơ sở hạ tầng cho phát triển KTTH còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KTTH. Công nghệ thu gom, xử lý, tái chế, tái sử dụng chất thải còn thiếu đồng bộ, chủ yếu vẫn là chôn lấp. Vị trí của Việt Nam về mức độ sẵn sàng cho Cách mạng công nghiệp 4.0 so với các nước trong khu vực và trên thế giới còn khiêm tốn...

Nhóm nghiên cứu đưa ra một số khuyến nghị, đó là cần nâng cao nhận thức, kiến thức, kỹ năng và phát triển các thực hành tốt về thực hiện KTTH; tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về KTTH; hình thành cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành để thúc đẩy KTTH; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển KTTH; xây dựng thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm tuần hoàn, tạo lợi thế cạnh tranh và lợi nhuận cho các doanh nghiệp, cũng như các lợi ích dài hạn khác cho các bên liên quan; tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D) và chuyển giao các công nghệ phục vụ cho mô hình KTTH, đồng thời khuyến khích sự hợp tác, liên kết, chia sẻ kinh nghiệm và tài nguyên giữa các bên liên quan; tăng cường liên kết, hợp tác, giám sát, đánh giá thực hiện KTTH và thúc đẩy hợp tác quốc tế trong phát triển KTTH…

Quang Minh
Xin chờ trong giây lát...

Hướng dẫn kỹ thuật về phân loại chất thải rắn tại nguồn

Phiên bản di động