Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và những yêu cầu đặt ra trong quá trình tái cơ cấu ngành Công Thương

17/09/2018 15:20 Công nghệ, thiết bị
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) đã trở thành xu hướng hiện hữu. Với nền tảng là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ trong các lĩnh vực kỹ thuật số, vật lý, sinh học cùng các ứng dụng có tính tích hợp cao như: công nghệ tự động hóa, công nghệ in 3D, robots thông minh, trí tuệ nhân tạo, công nghệ về kết nối, dữ liệu liệu lớn..., cuộc CMCN 4.0 được dự báo sẽ tạo ra những tác động hết sức mạnh mẽ tới mọi khía cạnh của hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn cầu. Đối với hoạt động sản xuất công nghiệp, những thay đổi trong mô hình kinh tế, phương thức sản xuất truyền thống, cũng như các yếu tố tạo giá trị, duy trì sự phát triển bền vững của một nền công nghiệp quốc gia và bản thân từng doanh nghiệp buộc các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản trị doanh nghiệp cần có sự nhìn nhận và đánh giá cụ thể các tác động do CMCN 4.0 mang lại để có những chiến lược phát triển phù hợp, giúp hạn chế các tác động tiêu cực, đồng thời tận dụng được những cơ hội từ cuộc CMCN 4.0.

Việt Nam đang trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng, sang chiều sâu dựa chủ yếu vào tăng năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, với một trọng những trọng tâm là tái cơ cấu trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Đây là một chủ trương đúng đắn, được Đảng, Nhà nước quán triệt trong nhiều chính sách quan trọng xuyên suốt thời gian qua. Trong bối cảnh của cuộc CMCN 4.0, quá trình tái cơ cấu nền kinh tế nói chung và sản xuất công nghiệp nói riêng sẽ cần có những thay thay đổi và hướng đi phù hợp trên cơ sở nhận diện được bản chất của CMCN 4.0 và những đặc trưng cơ bản của nền sản xuất công nghiệp trong tương lai, dự báo những tác động cũng như chỉ ra các yêu cầu đối với quá trình tái cơ trong thời gian tới.

Nhận diện những đặc trưng cơ bản của nền sản xuất công nghiệp trong tương lai

CMCN 4.0 sẽ tạo ra một nền sản xuất công nghiệp có tính cạnh tranh cao, duy trì tăng trưởng và phát triển dựa trên nền tảng của tri thức và ứng dụng mạnh mẽ của khoa học công nghệ hiện đại: Các nhà máy thông minh (smart factories) - với nền tảng của công nghệ tự động hoá và kết nối vạn vật giữa thế giới thực - ảo sẽ trở thành trung tâm của cuộc CMCN 4.0. Công nghệ bigdata, trí tuệ nhân tạo sẽ cho phép các hệ thống sản xuất tối ưu hóa, tự cấu trúc, hiệu chỉnh những thay đổi trong toàn bộ quá trình sản xuất từ việc hiệu chỉnh đơn hàng, quản lý biến động về chất lượng sản phẩm đầu ra, máy móc, các yếu tố đầu vào tới các hoạt động bảo trì, bảo dưỡng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm, giảm thiểu lãng phí và chất thải. Năng suất lao động sẽ được gia tăng một cách đáng kể. Theo các nhà nghiên cứu của ngân hàng DZ ở Đức, năng suất lao động ở các nhà máy sẽ tăng bình quân 11,5% nhờ vào các công nghệ mới. Đối với các ngành công nghiệp, ngành công nghiệp hóa chất và cơ khí chế tạo máy sẽ được hưởng lợi nhiều nhất với dự báo mức tăng năng suất lao động ở lên tới 30%, tiếp theo là ngành ô tô cũng tăng 20% và ngành công nghệ thông tin tăng 15%. Không chỉ trong hệ thống sản xuất, các chuỗi cung cấp từ vận chuyển trong nước, tiếp thị và bán hàng cho tới hậu cần bên ngoài và các dịch vụ hạ nguồn cũng sẽ được kết nối. Với điều này, việc đáp ứng các yêu cầu cụ thể của các khách hàng cá biệt thể có thể được thực hiện không chỉ trong sản xuất mà còn trong việc đặt hàng, lập kế hoạch và phân phối, tạo điều kiện cho các yếu tố như chất lượng, thời gian, rủi ro, giá cả … được xử lý tự động, trong thời gian thực và ở tất cả các khâu trong chuỗi giá trị. Rõ ràng, các yếu tố tạo nên giá trị truyền thống như tài nguyên, lao động sẽ được thay thế bởi tri thức và công nghệ và tạo ra một nền sản xuất có tính cạnh tranh và sàng lọc cao.

CMCN 4.0 sẽ khiến phân bố không gian công nghiệp ngày càng trở nên linh hoạt, các doanh nghiệp sản xuất có xu hướng dịch chuyển lại gần với thị trường tiêu thụ để đáp ứng nhanh nhất các nhu cầu khách hàng, trong khi các yếu tố định vị công nghiệp truyền thống (tài nguyên, lao động,..) sẽ giảm dần vai trò. Với nền tảng là sự phát triển và tích hợp các công nghệ hiện đại trên nền công nghệ số, CMCN 4.0 "dồn nén" chuỗi giá trị sản xuất cả về không gian và thời gian, tạo nên các chuỗi giá trị có sự gắn kết hết sức chặt chẽ. Theo chiều dọc, tích hợp tất cả các khâu, công đoạn sản xuất dọc theo chuỗi giá trị. Theo chiều ngang, tích hợp tất cả các yếu tố sản xuất cần thiết (con người, máy móc, nguyên liệu…) vào một khâu/ công đoạn sản xuất. Dòng thông tin số xuyên suốt chuỗi giá trị. Nếu như, trong phương thức sản xuất truyền thống, các nhà sản xuất sẽ chế tạo từng bộ phận, linh kiện riêng lẻ ở những nơi sản xuất khác nhau, rồi tập trung lại để lắp ráp với nhau, thì trong nền sản xuất tương lai, người ta có thể sản xuất tất cả bộ phận, linh kiện tại một nơi nhờ công nghệ in 3D, robot… Điều này sẽ cho phép các quốc gia, các nhà sản xuất đặt các nhà máy sản xuất gần thị trường tiêu thụ để có thể phản ứng nhanh nhạy với thay đổi nhu cầu.

CMCN 4.0 sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thay thế lao động của con người bởi những robot thông minh và trí tuệ nhân tạo. Mô hình nhà máy thông minh được tự động hóa hoàn toàn không phải là một viễn cảnh quá xa vời. Trí tuệ nhân tạo (AI) và siêu tự động hoá sẽ là một tính năng phổ biến của cuộc CMCN 4.0. Với sự phát triển nhanh chóng của các công nghệ này, cùng chi phí đầu tư cho việc tự động hóa ngày càng rẻ, trong khi có thể đảm năng suất tăng lên, tỷ lệ sai sót giảm đi, trong nhiều trường hợp còn rút ngắn thời gian sản xuất. Một ví dụ rất gần với điều này đó là trường hợp của Nhà máy Sản xuất Điện tử Siemens Thành Đô (SEWC), Trung Quốc. Ở SEWC, mọi công đoạn đều được tính toán đến từng chi tiết, số hóa toàn bộ quy trình quản lý từ đơn hàng, cấp vốn, thiết kế sản phẩm tới sản xuất, hậu cần và quản lý chất lượng. Chỉ với diện tích 3100 m2 và tổng số nhân viên là 450 người, mỗi năm, nhà máy sản xuất hơn 2,5 triệu sản phẩm với nhiều đặc điểm ưu việt vượt trội như: tốc độ trung bình 10 giây/1 đơn vị sản phẩm (trong đó, tỷ lệ lỗi trên mỗi triệu sản phẩm nhỏ hơn 10); Tỷ lệ sản phẩm đạt tiêu chuẩn qua lần kiểm tra đầu tiên là hơn 99,5%. Nếu xem xét ở tầm vĩ mô, các quốc gia có lợi thế về nguồn lao động nhân công giá rẻ và các ngành công nghiệp thâm dụng lao động sẽ chịu nhiều tác động trong xu hướng này

Mô hình kinh tế truyền thống và cơ chế tạo giá trị nền tảng dựa trên việc tối ưu hoá chi phí sản xuất sẽ được thay thế bằng mô hình kinh tế định hướng khách hàng với khả năng tùy biến sản xuất linh hoạt đáp ứng "theo yêu cầu" của từng khách hàng cá biệt: phương thức sản xuất truyền thống được duy trì dựa trên nguyên lý về hiệu quả kinh tế theo quy mô: khối lượng sản phẩm được sản xuất càng lớn, chi phí trên một đơn vị sản phẩm càng thấp. Điều này dẫn tới việc các ngành sản xuất chỉ quan tâm tới việc tối ưu hoá chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm hơn là tối ưu hoá nguồn vốn cần thiết để tạo ra chúng. Trong tương lai, mô hình này sẽ được thay thế bằng mô hình kinh tế định hướng khách hàng với khả năng tùy biến sản xuất linh hoạt đáp ứng "theo yêu cầu" của từng khách hàng cá biệt. Các dây chuyền sản xuất sẽ tự động kết hợp với nhau để sản xuất đơn chiếc mới mức giá thấp như hiện nay. Đây gọi là thời đại sản xuất hàng loạt sản phẩm đơn chiếc theo nhu cầu của khách hàng.

Trong bối cảnh của CMCN 4.0 với nền sản xuất công nghiệp trong tương lai dự kiến sẽ có nhiều thay đổi, đòi hỏi quá trình tái cơ cấu ngành công thương có những xem xét, điều chỉnh phù hợp, trong đó đặc biệt cần xem xét tới những yêu cầu chủ yếu sau:

Nhìn nhận lại mô hình tăng trưởng và công nghiệp hoá

Việt Nam đã duy trì trong một thời gian dài mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và nhân công giá rẻ, tiến hành CNH - HĐH trên cơ sở thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và xuất khẩu trong những ngành thâm dụng lao động có kỹ năng thấp. Theo số liệu Tổng cục thống kê, tỷ trọng xuất khẩu của khối doanh nghiệp FDI duy trì ở mức trên 70%, phần lớn các mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 1 triệu đô là những mặt hàng mà doanh nghiệp FDI chiếm ưu thế. Bằng tốc độ tăng luôn cao hơn mức tăng chung, khối FDI đã đóng góp có vai trò quyết định duy trì đà tăng trưởng cao xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên, cần thấy rằng, phần lớn các lĩnh vực thu hút các nhà đầu tư ngoại là các ngành thâm dụng lao động kỹ năng thấp: dệt may, da giầy, gia công, lắp ráp các thiết bị điện, điện tử, lắp ráp ô tô, chế biến thực phẩm…Đầu tư FDI chưa gắn liền với chuyển giao công nghệ hiện đại, kỹ năng quản lý, tổ chức sản xuất tiên tiến của các nước phát triển, công nhân làm việc trong các doanh nghiệp này cũng chỉ là những lao động đơn giản được bổ sung đào tạo những kỹ năng đơn giản. Trong bối cảnh của CMCN 4.0, khi tri thức và khoa học công nghệ mới đã thay thế dần và giảm dần vai trò của các yếu tố đầu vào truyền thống (lao động, tài nguyên ..) thì việc xem xét lại mô hình này là một yêu cầu cấp thiết. Cùng với khả năng tái phân bố lại hoạt động sản xuất mà biểu hiện rõ nét là xu hướng hồi hương các nhà máy chế tạo về lại các quốc gia phát triển sẽ buộc chúng ta xác định lại những động lực chính của quá trình công nghiệp hoá. Cụ thể, Việt Nam cần thay đổi mô hình tăng trưởng, mô hình công nghiệp hoá, định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, theo hướng:

(1) nâng cao chất lượng tăng trưởng dựa vào việc nâng cao năng suất lao động, nâng cao tỷ lệ đóng góp của các yếu tố về công nghệ, sáng tạo trong giá trị sản xuất công nghiệp;

(2) Công nghiệp hoá dựa vào việc nâng cao năng lực nội tại của nền kinh tế, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, tập trung xuất khẩu những sản phẩm có giá trị gia tăng cao mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh;

(3) Thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển trong các ngành đòi hỏi trình độ công nghệ, trình độ quản lý cao; gắn thu hút đầu tư FDI với chuyển giao, hấp thụ công nghệ để tăng cường năng lực của doanh nghiệp nội địa, đào tạo và chuyển giao trình độ chuyên môn, kỹ năng cho người lao động.

Lựa chọn các ngành, lĩnh vực ưu tiên phù hợp trong quá trình tái cơ cấu của ngành

Trong cơ cấu sản xuất công nghiệp hiện nay, các ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn là các ngành chế biến thực phẩm (luôn chiếm tỷ trọng cao nhất, mặc dù có xu hướng giảm nhẹ ở mức trên 17%), tiếp theo ngành sản xuất điện tử, máy vi tính và thiết bị viễn thông (trên 12%). Ngoài ra, phải kể đến các ngành như dệt may (8,12%), thiết bị giao thông (4,85%), máy tính và điện tử (3,54%)…Tuy nhiên, đây đều là những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động hoặc sản xuất sản phẩm cuối cùng nên có giá trị gia tăng thấp. Năng lực cạnh tranh ở các sản phẩm này chủ yếu nằm ở giá thấp (dựa trên nhân công giá rẻ hoặc các ưu đãi về thuế, tiền sử dụng đất, v.v.). Bên cạnh đó, giá trị tăng thêm của các ngành thuộc công nghệ cao năm 2012 chỉ chiếm 26,5% so với toàn ngành chế biến, chế tạo, thấp hơn tỷ lệ 29,1% của năm 2000. Công nghệ và sáng tạo vẫn là “vùng trũng nhất” (có xếp hạng thấp nhất), kéo dài nhiều năm trong sơ đồ cạnh tranh quốc gia của Việt Nam. Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2015-2016, Việt Nam được xếp hạng chung là 56, trong khi các chỉ số cấu phần liên quan đến đổi mới sáng tạo lại thấp hơn nhiều (Năng lực hấp thụ công nghệ: 121; Chuyển giao công nghệ từ FDI: 81; Độ sâu của chuỗi giá trị: 109; Mức độ phức tạp của quy trình sản xuất: 101; Chất lượng của các tổ chức nghiên cứu khoa học: 95; Giáo dục và đào tạo ở cấp sau phổ thông: 95). Nếu xem xét từ khía cạnh xuất khẩu, hiện nay, các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu còn tập trung vào một số ít nhóm hàng, gồm: các sản phẩm gia công (dệt may, chế biến thủy sản), thô và sơ chế (dầu thô, nông sản, thủy sản) và lắp ráp (máy tính, điện tử, ô tô, máy móc thiết bị). Do tính chất gia công, lắp ráp nên xuất khẩu những ngành này tăng lên kéo theo gia tăng nhập khẩu nguyên liệu và linh phụ kiện, phụ tùng do trong nước không đáp ứng được. Chính vì vậy, khi hoạt động sản xuất có xu hướng quy trở lại các nước phát triển, phân bố tập trung gần với thị trường của các quốc gia có trình độ cao thì ảnh hưởng của CMCN 4.0 đối với các ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu này là không thể tránh khỏi. Nếu không có những điều chỉnh phù hợp và kịp thời, nền sản xuất công nghiệp sẽ phải chứng kiến sự suy giảm nhanh chóng do mất đi các lợi thế cạnh tranh vốn có (lao động dồi dào, kỹ năng thấp), sự thu hẹp của quy mô thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu truyền thống, thậm chí là biến mất. Nguy cơ mất thị trường nội địa vào những doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài là hoàn toàn có thể khi doanh nghiệp Việt Nam hiện nay gặp hạn chế lớn về tiềm lực, trình độ công nghệ, quản lý và lao động... từ đó dẫn tới khả năng cạnh tranh thấp.

Dưới tác động của CMCN 4.0, cùng với quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng nền kinh tế, lĩnh vực sản xuất công nghiệp phải tiến hành tái cơ cấu một cách mạnh mẽ theo hướng:

1. Dịch chuyển mạnh mẽ những ngành công nghiệp công nghệ cao, sản xuất các sản phẩm giá trị gia tăng cao;

2. Nâng cao hiệu quả, năng lực sản xuất, khả năng cạnh tranh và năng suất của các ngành công nghiệp truyền thống thông qua việc đầu tư phát triển khoa học công nghệ, đổi mới và ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ của CMCN 4.0 và nâng cao trình độ, kỹ năng của người lao động;

3. Định hướng lại thị trường theo hướng tập trung vào đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước (một thị trường trên 90 triệu người tiêu dùng, thu nhập đang không ngừng gia tăng sẽ trở thành động lực quan trọng của nền sản xuất trong nước);

4. Lựa chọn và tập trung xuất khẩu vào nhóm các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, Việt Nam có lợi thế, giảm nhanh chóng xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản thô, các sản phẩm gia công, lắp ráp …

Nhìn lại năng lực cạnh tranh và yêu cầu tái cơ cấu đối với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp

Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) chiếm trên 97% tổng số doanh nghiệp của Việt Nam với nhiều hạn chế cơ bản như: (i) hầu hết các DNVVN có quy mô từ nhỏ đến siêu nhỏ (vốn chỉ ở mức 4-7 tỷ đồng/doanh nghiệp). (ii) đa số DNVVN Việt Nam chưa tham gia vào được chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, trình độ khoa học công nghệ và năng lực đổi mới còn thấp. Khoảng 80-90% máy móc và công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp của Việt Nam là nhập khẩu và 76% từ thập niên 1980-1990, 75% máy móc và trang thiết bị đã hết khấu hao; (iii) hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp, hàng tồn kho lớn. (iv) trình độ lao động thấp. Theo thống kê, có tới 55,63% số chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Bên cạnh đó, năng suất lao động của các doanh nghiệp Việt Nam ở mức thấp so với các nước trong khu vực, khoảng cách tuyệt đối đang ngày càng có xu hướng tăng lên.

Cuộc CMCN 4.0 sẽ làm thay đổi cách thức sản xuất, phân phối, tiêu dùng và thải bỏ sản phẩm. Với nền tảng của công nghệ số, kết nối thông minh cùng với những tiến bộ vượt bậc trong cả lĩnh vực vật lý, công nghệ thông tin và công nghệ sinh học buộc doanh nghiệp phải có những cuộc cách cách mạnh mẽ trong đầu tư, sản xuất và kinh doanh. Để thích ứng và xa hơn nữa là đón đầu, doanh nghiệp cần có nguồn lực tài chính, công nghệ, con người hết sức mạnh mẽ. Theo đó, tái cơ cấu công nghiệp gắn với tái cơ cấu doanh nghiệp cần tập trung theo các hướng sau:

1. Hỗ trợ hạ tầng công nghệ số và công nghệ thông tin; nâng cao tỷ lệ ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và tổ chức sản xuất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ;

2. Hỗ trợ đào tạo các kỹ năng quản lý, quản trị doanh nghiệp cho đội ngũ lãnh đạo; hỗ trợ đào tạo lại và đào tạo nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động giản đơn và lao động tay nghề thấp, thực hiện đào bổ sung các kỹ năng và kiến thức chuyên môn đáp ứng yêu cầu của các hệ thống sản xuất và công nghệ, thiết bị tiên tiến, hiện đại.

3. Ưu đãi và tạo thuận lợi trong tiếp cận các nguồn tài chính để thực hiện đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả quản lý và tổ chức sản xuất.

4. Ưu tiên và khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước tiếp nhận chuyển giao các công nghệ mới, công nghệ cơ bản của cuộc CMCN 4.0. Thay vì chỉ chú trọng đến việc hỗ trợ mua máy móc, trang thiết bị (phần cứng), cần có những hỗ trợ nhiều hơn đối với hoạt động chuyển giao phần mềm như tri thức, kỹ năng vận hành, và năng lực cải tiến các công nghệ được chuyển giao.

Tái cơ cấu lại thị trường lao động phục vụ sản xuất công nghiệp

Với xu hướng phát triển và ứng dụng nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo và robot thông minh, CMCN 4.0 sẽ đe dọa lao động kỹ năng thấp và một số công việc như hành chính, văn phòng. Một nghiên cứu của Đại học Oxford ước tính rằng có tới 47% công việc ngày hôm nay sẽ có tỷ lệ 75% tự động trong vòng 20 năm tới, chủ yếu là các công việc có thu nhập trung bình và văn phòng thường ngày mà không đòi hỏi trình độ kỹ thuật.

Theo báo cáo lao động và việc làm của Tổng cục Thống kê năm 2014, công nghiệp chế biến, chế tạo - là ngành chủ lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa chỉ chiếm 9% tổng số lao động trình độ cao, trong khi với các nước phát triển tỷ lệ nâng lên đến 40-60%. Trong số lao động trình độ cao, có đến gần 1,4 triệu người (tương đương ¼) không có bằng cấp hoặc chỉ có bằng sơ cấp, trung cấp; người có trình độ đào tạo cao đẳng trở lên chiếm 74,3% lao động trình độ cao. Nói cách khác, trên 90% lao động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo là lao động giản đơn, trình độ lao động thấp. Thực tế này trở thành một thách thức rất lớn trong chính sách phát triển công nghiệp cũng như chính sách phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam thời gian tới. Không những thế, thất nghiệp, mất việc làm cũng sẽ gây ra những tác động tới đời sống xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô. Những chính sách kịp thời và mạnh mẽ trong thời gian tới liên quan tới giáo dục, đào tạo (đào tạo mới, đào tạo bổ sung, đào tạo lại) những kỹ năng, kiến thức cần thiết cho người lao động nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0 là hết sức cần thiết. Theo nghiên cứu mới của ILO “ASEAN trong giai đoạn chuyển đổi - công nghệ đang thay đổi việc làm và DN như thế nào”, 86% số lao động Việt Nam trong ngành dệt may, da giày có thể phải đối mặt với nguy cơ mất việc cao do tự động hóa. Trong ngành sản phẩm điện - điện tử, dự báo có khoảng 3/4 lao động làm công ăn lương có thể sẽ bị thay thế bởi robot. Thực tế này đặt ra yêu cầu phải tái cơ cấu lại thị trường lao động gắn kết chặt chẽ với quá trình tái cơ cấu của ngành, cụ thể:

Tạo dựng môi trường và vị thế để lao động trình độ cao hoạt động: (1) Tạo dựng môi trường nuôi dưỡng, trọng dụng nhân tài; (2) Đổi mới căn bản chính sách thu hút - tuyển dụng - sử dụng đánh giá - đãi ngộ đối với lao động trình độ cao; (3) Xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực trọng điểm gắn với chiến lược công nghiệp hoá đất nước; (4) Có các chính sách đặc thù thu hút người tài và du học sinh Việt Nam ở nước ngoài trở về phục vụ đất nước.

Đổi mới giáo dục - đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại: (1) Thay đổi tư duy, chuyển đổi từ khả năng hệ thống sang đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động; (2) Xây dựng các tiêu chí chất lượng và hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về năng lực nghề nghiệp hội nhập quốc tế; (3) Đổi mới nội dung giáo dục - đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại; (4) Đẩy mạnh đào tạo nhân lực cho các ngành kinh tế mũi nhọn; (5) Xây dựng “Xã hội học tập” theo phương châm "học suốt đời“; (6) Gắn kết cơ sở đào tạo với doanh nghiệp.

Thực hiện đào tạo lại, đào tạo bổ sung cho lực lượng lao động có trình độ thấp, ưu tiên các kiến thức và kỹ năng liên quan tới ứng dụng công nghệ thông tin, tự động hóa, khả năng quan lý và phân tích thông tin. Thị trường lao động với trên 90% lao động trong lĩnh vực công nghiệp là lao động giản đơn, trình độ tay nghề thấp đòi hỏi Chính phủ cần có một Chương trình hỗ trợ riêng, tập trung vào việc nâng cao trình độ và tay nghề, kiến thức chuyên sâu của nhóm đối tượng này.

Kết nối cung - cầu lao động trình độ cao và quản trị thị trường lao động: (1) Hoàn thiện khung pháp lý và định hướng chiến lược cho thị trường lao động hoạt động; (2) Xây dựng và phát triển hệ thống tư vấn, hướng nghiệp, dịch vụ việc làm và thông tin thị trường lao động; (3) Tăng cường vai trò phản biện của các Hiệp hội trí thức; (4) Tạo điều kiện nâng cao chất lượng hoạt động của các công ty dịch vụ lao động, đặc biệt là kết nối cung cầu lao động trình độ cao.

Cách mạng công nghiệp là một sự thay đổi căn bản về chất. Điều kiện cần là sự tích tụ của lượng, cả về khoa học - kỹ thuật - công nghệ lẫn con người tri thức. Đến nay, Việt Nam đã mất nhiều thập kỷ để đuổi theo các tiêu chí cách mạng công nghiệp thế giới lần thứ hai, sẽ mất thêm nhiều thời gian nữa để đuổi kịp cách mạng công nghiệp thế giới lần thứ ba (cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại). Trước yêu cầu của CMCN4.0, việc nhận diện đầy đủ các cơ hội và thách thức từ đó có những điều chỉnh kịp thời trong quá trình tái cơ cấu của ngành Công Thương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, giúp Việt Nam có thể những hạn chế và cơ hội bắt kịp tiến bộ của nhân loại, từng bước đi theo làn sóng cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư./.
Th.s Trần Việt Hòa
Phó Vụ trưởng, Vụ Khoa học và Công nghệ - Bộ Công Thương

 
Xin chờ trong giây lát...

Phân loại chất thải sinh hoạt: Khó khăn từ thực tiễn

Phiên bản di động