Toàn cầu hóa và những thách thức về Khoa học công nghệ đối với thị trường hàng hóa môi trường

13/08/2023 14:19 Nghiên cứu trong nước
Toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ và là một xu thế tất yếu đối với sự phát triển của thế giới ngày nay. Vai trò của toàn cầu hóa đang ngày càng được khẳng định trong việc thúc đẩy sự giao lưu kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và an ninh mà không một quốc gia nào nằm ngoài xu thế đó. Toàn cầu hóa không chỉ mang đến những thuận lợi cho các quốc gia mà nó còn mang đến nhiều thách thức về khoa học và công nghệ đối với sản xuất các sản phẩm bảo vệ môi trường.

Nhiều cơ hội về khoa học công nghệ

Toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối quan hệ có ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực các quốc gia, các dân tộc trên thế giới. Toàn cầu hoá vừa là cơ hội to lớn cho sự phát triển của mỗi quốc gia, đồng thời cũng tạo ra những thách thức mà nếu không chuẩn bị nội lực và bỏ lỡ thời cơ thì sẽ bị tụt hậu rất xa trên con đường tiến tới văn minh của nhân loại.

Trong tiến trình tăng trưởng kinh tế tài chính quốc tế, khoa học và công nghệ luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng xuất lao động và hiệu quả sản xuất và hiển nhiên trong toàn cảnh toàn thế giới hóa. Đảng và Nhà nước ta đã xác định khoa học và công nghệ là quốc sách số 1 trong chủ trương phát triển của đất nước thời đại mới.

Toàn cầu hóa giúp khoa học và công nghệ nước ta từng bước hội nhập, giao lưu với nền khoa học công nghệ của quốc tế, tạo thuận lợi cho việc học tập, trao đổi kinh nghiệm, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ quốc tế phục vụ cho sự phát triển của đất nước trên các mặt kinh tế - chính trị - xã hội. Việc chuyển giao những dây chuyền sản xuất công nghệ, khoa học tiên tiến và phát triển của quốc tế vào từng ngành nghề, đã góp phần đưa những ngành này từng bước tiếp cận và đạt đến trình độ của quốc tế.

Toàn cầu hóa tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự đầu tư của các nước tiên tiến có nền khoa học và công nghệ phát triển cao như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…

Toàn cầu hóa cũng thúc đẩy quá trình góp vốn đầu tư quốc tế vào nhiều ngành khoa học và công nghệ trong nước, đặc biệt quan trọng là sự góp vốn đầu tư của những nước tiên tiến và phát triển có nền khoa học và công nghệ tăng trưởng cao như Mỹ, Nhật Bản, Nước Hàn, Singapo. Sự tham gia liên kết kinh doanh, liên kết trong hoạt động khoa học và công nghệ với những đối tác chiến lược quốc tế giúp cho những nhà khoa học và công nghệ trong nước có cơ hội tiếp cận với khoa học và công nghệ cao mà qua đó từng bước thu hẹp khoảng cách về kỹ năng và kiến thức cũng như nâng cao hàm lượng phát minh sáng tạo khoa học và công nghệ của cá thể và nền khoa học và công nghệ trong nước. Các chương trình hợp tác đào tạo và giảng dạy nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao, có năng lực tiếp đón, chuyển giao và ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến và phát triển của quốc tế sẽ góp thêm phần nâng cao năng lượng, trình độ của đội ngũ những người làm khoa học hiện có và tăng trưởng đội ngũ những nhà khoa học công nghệ trẻ kế tục sự nghiệp tăng trưởng nền khoa học và công nghệ vương quốc ngày càng tân tiến hơn.

Thách thức về khoa học và công nghệ trong thị trường các sản phẩm bảo vệ môi trường khi toàn cầu hóa

Toàn cầu hóa khiến cho những mẫu sản phẩm khoa học - công nghệ của quốc tế của những nước tiên tiến và phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản và những nước Châu Âu xâm nhập mạnh mẽ vào thị trường trong nước khiến cho nền khoa học công nghệ về sản xuất các sản phẩm, thiết bị khoa học công nghệ bị cạnh tranh đặc biệt. Không chỉ các lĩnh vực như công nghiệp may mặc, cơ khí chế tạo, mà còn các sản phẩm của ngành Công nghiệp môi trường cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ từ quá trình toàn cầu hóa.

Có thể lấy ví dụ về thiết bị lọc nước. Trong khi các sản phẩm công nghệ về lọc nước được tạo ra bởi người Việt hoặc sản xuất tại Việt Nam hiện nay không nhiều, có thể kể đến: Máy lọc nước Karofi; Máy lọc nước SunHouse; Máy lọc nước điện cực của TS Đỗ Hữu Quyết; máy lọc nước Mutosi của CEO Trần Trung Dũng cùng với đó là một số phát minh khác nhưng chỉ là các thiết bị hỗ trợ lọc nước… thì thị trường sản phẩm của các quốc gia khác về thiết bị lọc nước lại rất lớn và chiếm thị phần gần 60% số lượng sản phẩm đang được cung cấp trên thị trường. Có thể kể đến các hàng máy lọc nước hàng đầu như Kangaroo, Máy lọc nước A. O. Smith của Mỹ; Máy lọc nước Pureit là thuộc tập đoàn Unilever, Mỹ; máy lọc nước Korihomeđến từ Hàn quốc; Máy lọc nước Coway đến từ Hàn Quốc…

Có thể nói toàn cầu hóa tạo ra sự cạnh tranh khủng khiếp đối với hầu hết các mặt hàng, không chỉ riêng các mặt hàng như thiết bị lọc nước.

Bên cạnh đó, toàn cầu hóa cũng làm nẩy sinh những yếu tố tranh chấp liên quan đến sở hữu trí tuệ; bản quyền; thương hiệu; hướng dẫn kiểm định, kiểu dáng công nghiệp … là những nội dung mà nước ta đang ở trình độ nhận thức chưa cao so với các nước phát triển khác. Sự chênh lệch về trình độ khoa học và công nghệ quá lớn trong một sân chơi có sự cạnh tranh sẽ khiến cho các sản phẩm của chúng ta thua thiệt và và thiếu năng lực nội tại để phát triển.

Song song với đó, những mẫu sản phẩm khoa học công nghệ trong nước nhất là các sản phẩm bảo vệ môi trường, dù đã được nâng cấp cải tiến và thay đổi nhiều, tuy nhiên phần nhiều vẫn sử dụng những công nghệ cũ, lỗi thời. Việc thay đổi công nghệ so với mặt bằng chung của các quốc gia phát triển vẫn còn chậm. Trong điều kiện kinh tế còn tăng chậm sau đại dịch Covid-19, việc góp vốn đầu tư vào điều tra và nghiên cứu và thay đổi công nghệ bị hạn chế khiến cho những sản phẩm khoa học và công nghệ vẫn bị tụt hậu so với quốc tế, làm giảm năng lực cạnh tranh. Mặt khác, việc thay đổi công nghệ không chỉ đơn thuần là thay các thiết bị cũ bằng các thiết bị mới mà còn phải thay đổi cả một mạng lưới hệ thống quản trị cũng như nguồn nhân lực chất lượng cao đi kèm mà những điều này vẫn còn thiếu và yếu. Có thể nhận thấy điều này rất rõ nét tại các doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm xử lý rác thải, nước thải. Các công nghệ hiện có vẫn đang khá lạc hậu, mẫu mã không bắt mắt, tính năng xử lý cũng như hiệu quả xử lý của các sản phẩm do các doanh nghiệp trong nước bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập. Trong khi đó, các sản phẩm tiên tiến, ngoại nhập như các công nghệ đốt thu hồi nhiệt, công nghệ xử lý đốt rác phát điện, các thiết bị tái chế thông minh đang dần có mặt và chiếm lĩnh thị trường trong nước bằng chính hiệu quả, chất lượng và các chế độ hậu mãi. Đây cũng là một thách thức lớn đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước không ngừng vươn lên, thay đổi tư duy, tầm nhìn và có các chiến lượt phát triển khoa học và công nghệ dài hơi nhằm đáp ứng bài toán cạnh tranh về thị phần và kinh tế.

Một thách thức nữa đặt ra đối với phát triển các sản phẩm bảo vệ môi trường trong tiến trình toàn cầu hóa hiện nay đó là cơ chế, chính sách cho ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Khung hành lang pháp lý của Việt Nam cũng như Luật Khoa học và Công nghệ đã cơ bản đầy đủ và đi dần vào đời sống, tạo đà cho tăng trưởng kinh tế tài chính - xã hội, đưa khoa học và công nghệ thực sự trở thành lực lượng sản xuất quan trọng để tăng trưởng phát triển kinh tế, tuy nhiên vẫn còn nhiều lỗ hổng trong Luật, Nghị định, Thông tư hướng dẫn hay quy trình triển khai đến doanh nghiệp còn rườm rà, nhiều khi bất cập giữa chính các cơ quan quản lý khiến việc triển khai đến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Việc này làm ảnh hưởng đến đầu tư khoa học công nghệ, tăng cường phát minh, sáng chế phục vụ sản xuất các sản phẩm bảo vệ môi trường tại các địa phương cũng như doanh nghiệp.

Đầu tư để tăng trưởng khoa học và khoa học tuy đã có nhiều chuyển biến, được chú trọng nhưng mới chỉ đạt 2% - 3% tổng chi Ngân sách nhà nước. Đây là con số quá thấp so với nhu cầu của hoạt động khoa học và công nghệ. Các nước tiên tiến và phát triển góp vốn đầu tư cho tăng trưởng khoa học công nghệ, đặc biệt quan trọng là điều tra và nghiên cứu những loại sản phẩm khoa học ứng dụng luôn đạt từ 3 - 5 % ngân sách. Rõ ràng sự chênh lệch về vốn góp vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ cũng đã là một thách thức lớn cho nền khoa học và công nghệ nước ta. Điều này cũng phần nào ảnh hưởng đến phát triển các ngành nghề tại Việt Nam, trong đó có ngành Công nghiệp môi trường.

Có thể thấy rang, toàn cầu hóa đã dần thay đổi hình ảnh một nước Việt Nam từ một nền kinh tế nông nghiệp đã chuyển dần sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó nề tảng của sự thay đổi đó chính là sự tiến bộ về khoa học và công nghề của nước ta bên cạnh chủ trường hội nhập toàn diện của đất nước. Toàn cầu hóa mang lại nhiều lợi thế, nhưng cũng đem lại nhiều khó khăn cho các ngành nghề mới như ngành Công nghiệp môi trường. Để hòa nhập, cùng phát triển trong tiến trình toàn cầu hóa, thiết yếu phải ưu tiên, tập trung chuyên sâu góp vốn đầu tư trước một bước cho khoa học và công nghệ, đồng thời thay đổi can đảm và mạnh mẽ, đồng điệu chính sách quản trị khoa học và công nghệ, nhất là chính sách kinh tế - tài chính nhằm mục đích giải phóng năng lượng phát minh sáng tạo của nhà khoa học-công nghệ, đưa nhanh văn minh khoa học - công nghệ vào sản xuất các sản phẩm phục vụ công tác bảo vệ môi trường. Việc tăng cường liên kết những tổ chức khoa học và công nghệ giữa nhà nước - nhà khoa học - nhà doanh nghiệp ngày càng phải được đầu tư, quan tâm thỏa đáng bên cạnh việc tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ cao phải là hướng ưu tiên trong hội nhập quốc tế. Có như vậy nền khoa học và công nghệ nước ta nói chung mới không lạc lõng và tụt hậu so với quốc tế đồng thời là điều kiện, động lực thúc đẩy cho các ngành kinh tế trong đó có ngành Công nghiệp môi trường.

Đỗ Quý Thành
Xin chờ trong giây lát...

Phân loại chất thải sinh hoạt: Khó khăn từ thực tiễn

Phiên bản di động