Rác thải điện tử - Mối nguy hại trên toàn cầu và một số giải pháp xử lý
Rác thải điện tử đang là mối nguy hiểm cho môi trường cũng như sức khỏe con người |
Tác động của RTĐT đối với sức khỏe
Theo Báo cáo “Giám sát RTĐT toàn cầu năm 2020” do Liên hợp quốc công bố, toàn thế giới có tổng cộng 53,6 triệu tấn RTĐT (năm 2019), tăng 21% so với 5 năm trước đó và tính theo bình quân đầu người trung bình là 7,3 kg/người. Trong đó, châu Á là nơi tạo ra nhiều RTĐT nhất, với khoảng 24,9 triệu tấn, tiếp đến là châu Mỹ (13,1 triệu tấn), châu Âu (12 triệu tấn), châu Phi (2,9 triệu tấn) và châu Đại Dương là 0,7 triệu tấn (Thống kê của GESP - Hiệp hội thống kê chất thải điện tử (CTĐT) toàn cầu). Các quốc gia đứng đầu về lượng RTĐT là Trung Quốc (10,1 triệu tấn), Mỹ (6,9 triệu tấn), Ấn Độ (3,2 triệu tấn), chiếm gần 38% lượng RTĐT của cả thế giới. Mặc dù vậy, ước tính của GESP cho thấy, chỉ 17,4% lượng rác thải trên được thu gom, vận chuyển đến các cơ sở quản lý hoặc tái chế chính thức; phần còn lại chuyển đến một số quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. Điều đáng nói là trong RTĐT có chứa hơn 1.000 hợp chất khác nhau (Thống kê của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP)), trong đó, nhiều chất độc hại với các thành phần chủ yếu là kim loại nặng, kim loại quý, bao gồm chì, thủy ngân, niken, chất chống cháy brom hóa, hydrocacbon thơm đa vòng (PAH)… khi bị phát tán ra môi trường thường khó nhận biết, dễ gây tâm lý chủ quan cho người tiếp xúc, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Ước tính, mỗi năm có tới 50 tấn thủy ngân đi theo các thiết bị điện tử hỏng như màn hình ti vi, bóng đèn tiết kiệm năng lượng… ra bãi rác, trong khi thủy ngân là chất độc, có thể làm tổn thương não và suy yếu sự phát triển nhận thức của trẻ em. Ngoài ra, hàng trăm triệu tấn CO2 từ các thiết bị tủ lạnh, máy lạnh bỏ đi, chiếm khoảng 0,3% lượng khí thải nhà kính trên toàn cầu, là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường không khí. Thông dụng nhất như một chiếc điện thoại iphone cũng sử dụng tới 17 chất hóa học, trong đó có nhiều chất hiếm như neodymium, europium, xeri... nếu ở liều lượng lớn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của những người lao động phi chính thức làm việc trong lĩnh vực tái chế CTĐT, bao gồm cả phụ nữ mang thai, trẻ em, thanh, thiếu niên.
Các tính toán gần đây nhất về tổng số công nhân tham gia công việc xử lý chất thải không chính thức trên toàn thế giới, có từ 2,9 - 12,9 triệu phụ nữ, bao gồm cả phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ tiềm ẩn nguy cơ bị phơi nhiễm với dư lượng chất độc hại, gây ra hậu quả tiêu cực suốt đời đối với sức khỏe cũng như sự phát triển của thai nhi. Cụ thể, khi phụ nữ tiếp xúc với chì từ hoạt động tái chế RTĐT sẽ có nguy cơ mang thai tiêu cực như thai chết lưu hoặc sinh non; trẻ sơ sinh nhẹ cân/thấp bé; làm giảm đáng kể điểm đánh giá hành vi thần kinh ở trẻ; tăng tỷ lệ rối loạn tăng động, giảm chú ý (ADHD); thay đổi hành vi, tâm trạng của trẻ; khó tích hợp các giác quan và giảm điểm nhận thức, ngôn ngữ... Đáng chú ý, trên khắp thế giới, các địa điểm xử lý CTĐT rất đa dạng về quy mô cũng như đặc điểm, thêm vào đó là công tác xử lý CTĐT không đúng cách đã và đang được thực hiện rộng rãi (tháo dỡ thủ công, thiêu đốt ngoài trời, đun nóng chảy, ngâm axit và vứt bỏ CTĐT tại bãi rác lộ thiên)... tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường không khí. Bên cạnh đó, những vết đen trên mặt đất sau khi CTĐT bị đốt cháy sẽ làm chì ngấm vào đất, gây ô nhiễm, tiếp xúc với chì ngay cả ở mức độ thấp, cũng gây nguy hiểm cho sự phát triển của trẻ em như suy giảm chức năng phổi, ảnh hưởng đến đường hô hấp, tổn thương DNA; suy giảm chức năng tuyến giáp; tăng nguy cơ mắc một số bệnh mãn tính, bệnh hiểm nghèo như ung thư, tim mạch... Trong khi đó, với con số hơn 18 triệu trẻ em và thanh, thiếu niên từ 5 - 17 tuổi đang tham gia vào các ngành công nghiệp, nhiều trẻ em mới 5 tuổi vẫn phải làm việc trong lĩnh vực phân loại, tháo dỡ, tái chế CTĐT. Đây là độ tuổi rất dễ bị tổn thương bởi hóa chất độc hại, do các cơ quan chưa phát triển hoàn thiện, dẫn đến việc hấp thụ nhiều chất ô nhiễm hơn nhưng khả năng chuyển hóa hoặc đào thải chất độc ra khỏi cơ thể không bằng người lớn.
Từng là một làng chài yên bình, nhưng khoảng 7 năm trở lại đây, thị trấn Agbogbloshie (Ghana) đã trở thành bãi rác điện tử lớn nhất thế giới, được nhận định là “điểm cuối” của dòng RTĐT chưa xử lý ở các quốc gia lớn như Mỹ, Anh, Đức, Pháp... Trung bình mỗi ngày có khoảng 500 container RTĐT nhập vào cảng biển Tama bằng cách gắn mác “quà tặng”, nhưng thực chất nhiều trong số đó chỉ được xử lý qua loa, thậm chí đem chôn lấp, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Mạng lưới Hành động Basel (BAN) đã chỉ ra, chất độc không chỉ ngấm vào đất, nước, phát tán trong không khí, mà còn hiện diện trong thực phẩm, nhiều trứng gà quanh Agbogbloshie nhiễm độc ở mức báo động, khi ăn một quả trứng tại đây, một trẻ em sẽ có thể phải tiêu thụ lượng dioxin cao gấp 220 lần so với khuyến cáo của Cơ quan an toàn thực phẩm châu Âu. Vì vậy, quản lý RTĐT không đúng cách sẽ là mối đe doạ ngày càng lớn, tạo gánh nặng cho ngành y tế.
Một số giải pháp xử lý RTĐT trên thế giới
Trước những con số đáng báo động mà Liên hợp quốc đưa ra về CTĐT, Hiệp hội chất thải rắn quốc tế (ISWA) cho rằng, số lượng CTĐT tăng nhanh gấp 3 lần so với dân số và hơn 13% so với GDP của thế giới trong 5 năm qua đã tạo nên những áp lực lớn rất lớn về môi trường, sức khỏe, đồng thời cho thấy sự cấp thiết phải kết hợp cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với nền kinh tế tuần hoàn (KTTH). Theo đó, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hoặc sẽ thúc đẩy cách tiếp cận KTTH mới, hoặc sẽ làm cạn kiệt nguồn tài nguyên cùng làn sóng ô nhiễm mới, đó là lý do việc giải quyết vấn nạn về RTĐT đang được coi là nhiệm vụ quan trọng đối với các tổ chức toàn cầu như ISWA, Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), UNEP,WHO... Đặc biệt, năm 2019, GESP phát hiện ra rằng, trong số 17,4% RTĐT được thu gom, tái chế đúng cách có thể giúp ngăn chặn 15 triệu tấn CO2 tương đương thải ra môi trường. Vì vậy, thu gom, tái chế thiết bị điện, điện tử phế thải một cách thích hợp chính là chìa khóa để BVMT và giảm lượng phát thải gây hại cho khí hậu.
Trước đó, vào năm 2013, Sáng kiến của WHO về CTĐT và sức khỏe trẻ em đã được khởi động với mục đích tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tác hại của CTĐT tới sức khỏe, nhất là ở trẻ em; nâng cao năng lực ngành y tế; thúc đẩy việc giám sát CTĐT; tạo điều kiện cho các nghiên cứu có liên quan phát triển và thử nghiệm một số sáng kiến thí điểm ở cấp quốc gia, nhằm giảm thiểu rủi ro sức khỏe từ CTĐT. Bên cạnh việc thực hiện mục tiêu của Sáng kiến, WHO đã làm việc với các tổ chức quốc tế cùng nhiều cơ quan khác của Liên hợp quốc, với tư cách là thành viên của Liên minh CTĐT và mạng lưới các trung tâm hợp tác toàn cầu về việc biên soạn, nghiên cứu, xây dựng kỹ năng của đội ngũ chuyên gia y tế bằng cách sử dụng gói đào tạo của WHO về sức khỏe môi trường của trẻ em, bao gồm 1 mô-đun về CTĐT, 1 khóa học trực tuyến quy mô lớn tập trung vào CTĐT. Ngoài ra, WHO còn phối hợp với một số văn phòng khu vực, cộng đồng địa phương, Chính phủ, cơ quan của Liên hợp quốc ở châu Mỹ, châu Phi về các dự án thí điểm nhằm phát triển khuôn khổ bảo vệ sức khỏe trẻ em khỏi CTĐT và dự kiến sẽ được điều chỉnh, nhân rộng ở nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Đặc biệt, tháng 6/2021, WHO đã công bố Báo cáo “Trẻ em và bãi rác điện tử”, đây là báo cáo đầu tiên nêu chi tiết về phạm vi ảnh hưởng của CTĐT đối với sức khỏe trẻ em, tập trung cụ thể vào nhiều vấn đề, trong đó chỉ rõ những hành động thiết thực mà ngành y tế và các bên liên quan có thể thực hiện để giải quyết vấn đề nguy cơ sức khỏe tiềm ẩn từ RTĐT. Đồng thời, Báo cáo kêu gọi nhà xuất khẩu, nhập khẩu và Chính phủ thực hiện các biện pháp hiệu quả, ràng buộc để bảo đảm xử lý rác thải một cách hợp lý về môi trường cũng như sức khỏe, sự an toàn của người lao động và cộng đồng; tăng cường giám sát phơi nhiễm CTĐT và kết quả sức khỏe; tạo điều kiện tái sử dụng vật liệu; khuyến khích sản xuất thiết bị điện, điện tử bền vững hơn…
Cùng với WHO, nhận định trẻ em, thanh, thiếu niên có quyền được lớn lên, học tập trong môi trường lành mạnh, kể từ năm 2014, số lượng quốc gia áp dụng các chính sách hoặc quy định về RTĐT đã tăng lên 78/193 nước thành viên Liên hợp quốc. Năm 2018, ITU từng đặt mục tiêu đến năm 2023, tăng tái chế RTĐT từ 17% lên 30%. Tổ chức Children and Digital Dumpsites (Trẻ em và rác thải kỹ thuật số) cũng kêu gọi ngành y tế tác động đến các nhà ra quyết định cần quan tâm đến vấn đề sức khỏe, coi đây là trọng tâm của chính sách về quản lý RTĐT, đồng thời, tăng cường năng lực trong việc chẩn đoán, giám sát, ngăn ngừa phơi nhiễm chất độc ở trẻ em và phụ nữ; nâng cao nhận thức về những đồng lợi ích tiềm năng của việc tái chế có trách nhiệm; đẩy mạnh hợp tác với những cộng đồng bị ảnh hưởng và vận động để có dữ liệu tốt hơn. Ngoài ra, tiến hành thu thập dữ liệu và thực hiện các nghiên cứu sâu về rủi ro sức khỏe mà người lao động phi chính thức phải đối mặt khi làm việc với RTĐT.
Tại Việt Nam
Hiện nay chưa có số liệu thống kê chính thức về tổng lượng RTĐT phát sinh tại Việt Nam, tuy nhiên, theo dòng chảy từ các nước phát triển sang các nước kém phát triển, qua cả con đường hợp pháp và phi pháp, cộng với lượng RTĐT nội sinh đã khiến Việt Nam phải đối mặt và tập trung tìm giải pháp hiệu quả để xử lý bài toán này. Số liệu thống kê của GESP cho thấy, riêng năm 2019, Việt Nam có 514.000 tấn sản phẩm điện tử được đưa ra thị trường, phát sinh 257.000 tấn RTĐT, với mức bình quân 2,7 kg/người. Ngoài RTĐT truyền thống, các tấm quang điện mặt trời (PV), pin xe điện (EV) thải đang là thách thức lớn khi mà điện năng lượng mặt trời và các phương tiện giao thông chạy điện được khuyến khích sử dụng. Bên cạnh đó, lượng RTĐT được nhập khẩu dưới dạng phế liệu hoặc máy móc, thiết bị đã qua sử dụng có xu hướng tăng mạnh kể từ khi lệnh cấm nhập khẩu chất thải của Trung Quốc có hiệu lực năm 2018. Cùng với đó, thống kê từ Viện Khoa học và Công nghệ môi trường, Đại học Bách khoa Hà Nội cũng chỉ ra, hiện mỗi năm Việt Nam phát sinh khoảng 100.000 tấn RTĐT, chủ yếu là đồ gia dụng điện tử, văn phòng và ước tính đến năm 2025, riêng rác thải ti vi có thể lên tới 250.000 tấn. Đáng chú ý, CTĐT ở Việt Nam được xếp vào nhóm chất thải nguy hại và từ năm 2013, các thiết bị điện - điện tử thải bỏ được nhận định là 1 trong sáu nhóm sản phẩm phải thu hồi, xử lý, nhưng cho đến nay, vẫn chưa có một văn bản pháp lý nào quy định cụ thể việc quản lý CTĐT.
Trước đây, hoạt động thu gom, tái sử dụng, tái chế, xử lý RTĐT tại Việt Nam có sự tham gia của hai khu vực phi chính thức (những người thu gom đồng nát, cơ sở ve chai/phế liệu, cửa hàng dịch vụ, làng nghề) và chính thức (cơ sở xử lý chất thải nguy hại được Bộ TN&MT cấp phép hoạt động), trong đó chủ yếu vẫn là thông qua các cá nhân một cách không chính thức rồi tập kết về làng nghề để tái chế. Tuy nhiên, những cơ sở tái chế này đều nhỏ lẻ theo quy mô hộ gia đình, kỹ thuật phổ biến là hỏa luyện, thủy luyện, công nghệ lạc hậu, ảnh hưởng đến sức khỏe công nhân và môi trường... Những năm gần đây, việc tuyên truyền nâng cao nhận thức về RTĐT được quan tâm hơn, nhất là sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 quy định việc thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ; Quyết định số 491/2018/QĐ-TTg ngày 7/5/2018 phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó quy định đến năm 2025, 100% nhà sản xuất thiết bị điện tử phải thiết lập, công bố các điểm thu hồi sản phẩm thải bỏ theo quy định của pháp luật... Tuân thủ những quy định trên, nhiều địa phương trên cả nước đã triển khai các mô hình thu gom pin, RTĐT hiệu quả, điển hình như TP. Hà Nội đã thực hiện 5 điểm thu gom RTĐT miễn phí, gồm Nhà văn hóa phường Nghĩa Tân (45 Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy); Ban Quản lý công trình công ích Hoàn Kiếm (số 1 Trần Quang Khải, quận Hoàn Kiếm); UBND phường Quán Thánh (12 - 14 Phan Đình Phùng, quận Ba Đình); UBND phường Thành Công (quận Ba Đình); Chi cục BVMT (số 17 Trung Yên 3, Trung Hòa, Cầu Giấy). Đặc biệt, từ đầu năm 2018, Tổ chức Việt Nam tái chế đã phát động Chương trình thu gom RTĐT tận nhà miễn phí cho các hộ gia đình nhằm hỗ trợ người tiêu dùng xử lý CTĐT và nâng cao nhận thức về việc phân loại rác thải tại nguồn. Cùng với đó, tổ chức này đã triển khai hoạt động “Trao đi thiết bị hỏng - Nhận lại quà tặng xanh”, nhằm khuyến khích người dân nâng cao ý thức thu gom, xử lý RTĐT an toàn, thân thiện với môi trường.
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, đến nay, việc thu gom, xử lý RTĐT của nước ta vẫn chưa thực sự phát huy hiệu quả. Nguyên nhân của sự bất cập này là do lỗ hổng trong các quy định hiện hành, mặc dù Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật yêu cầu các doanh nghiệp (DN) sản xuất có trách nhiệm đối với sản phẩm của mình, nhưng chưa có quy định cụ thể về số lượng các điểm thu hồi, tỷ lệ sản phẩm mà DN phải thu hồi, nên việc thực hiện chủ yếu trông chờ vào sự tự giác của DN. Bên cạnh đó, hoạt động kiểm tra, giám sát chưa được thực hiện một cách nghiêm túc; chưa có bãi tập kết RTĐT riêng… Vì vậy, về mặt quản lý nhà nước, Việt Nam cần có mạng lưới thu gom CTĐT hiệu quả hơn, thực hiện bởi những đơn vị có chuyên môn. Đồng thời, cần triển khai từ nghiên cứu khoa học sang ứng dụng kỹ thuật thực tiễn ở quy mô công nghiệp, trong đó, cơ sở xử lý được cấp phép tái chế RTĐT phải thiết lập quy trình chung cho tất cả vật liệu được đưa vào tái chế. Ví dụ như các thiết bị điện, điện tử (laptop, điện thoại, ti vi, đầu đĩa, máy ảnh…) thải bỏ phải được chuyển đến trung tâm xử lý chất thải độc hại để phân loại, tháo dỡ, bóc tách linh kiện theo từng mục đích có thể tái sử dụng; những linh kiện không còn giá trị sử dụng thì đưa đi phân hủy trong quy trình khép kín, đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường. Về phía chính quyền địa phương, cần rà soát những cơ sở tái chế chưa có giấy phép hoạt động và hướng dẫn thủ tục cấp phép kịp thời, tránh bị xử phạt hoặc buộc dừng hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Trong kế hoạch xa hơn, Việt Nam cần sớm có luật về quản lý CTĐT và chính quy hóa hoạt động tái chế; xây dựng hệ thống thu hồi sản phẩm điện tử thải bỏ theo đúng quy định pháp luật nhằm truy xuất nguồn gốc CTĐT và tiết kiệm chi phí thu gom, vận chuyển sản phẩm thải bỏ. Nhà nước, các hiệp hội ngành cũng phải tăng cường giám sát, kiểm soát dòng CTĐT, đồng thời đẩy mạnh áp dụng các quy chuẩn về vật liệu, công nghệ và sản phẩm tái chế. Các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm nghiên cứu, xây dựng, ban hành chính sách ưu đãi đối với công tác thu hồi, xử lý sản phẩm điện tử; đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về nguy cơ của RTĐT để phân loại, thu gom, xử lý đúng cách. Thêm vào đó, để giải quyết bài toán RTĐT một cách bền vững, bên cạnh việc tiếp tục triển khai nhân rộng các mô hình thu gom hiệu quả, có thể xem xét áp dụng mô hình KTTH, trong đó, các DN sản xuất là một mắt xích quan trọng, nhìn nhận rõ trách nhiệm của mình để có lựa chọn tốt ngay từ khâu đầu vào, công nghệ cũng như đầu ra, trách nhiệm thu hồi sản phẩm thải bỏ nhằm hạn chế tối đa lượng RTĐT phát sinh ra môi trường.
Tài liệu tham khảo:
2. https://dangcongsan.vn/khoa-hoc/rac-thai-dien-tu-de-doa-suc-khoe-cua-hang-trieu-tre-em
3. http://cgfed.org.vn/bao-dong-thuc-trang-rac-thai-dien-tu-o-viet-nam/
4. https://sbb.vn/tac-hai-cua-chat-thai-dien-tu-toi-suc-khoe-con-nguoi-dac-biet-la-tre-nho/