Tăng cường trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp FDI về bảo vệ môi trường và người lao động

19/09/2018 02:08 Tác động môi trường
Doanh nghiệp thời hội nhập cần nghiêm túc tuân thủ trách nhiệm bảo vệ môi trường và người lao động. Những doanh nghiệp thành công luôn là những doanh nghiệp có triết lý kinh doanh ưu tiên hướng về môi trường và người lao động, thực sự coi đó là động lực cho sự phát triển ổn định, bền vững của doanh nghiệp và đất nước…

Bên cạnh đó, Nhà nước cần tăng cường năng lực thể chế, hoàn thiện cơ sở pháp lý, kiện toàn bộ máy và phân công rõ ràng, trách nhiệm cá nhân cụ thể, đồng bộ trong công tác bảo vệ môi trường và lao động từ trung ương đến địa phương; kiên quyết xử lý những hành vi vô cảm, vô trách nhiệm, vô đạo đức và những biểu hiện phi nhân văn, ích kỷ; đồng thời hỗ trợ tích cực cho các tổ chức xã hội, bảo vệ môi trường và người lao động.

Tăng cường trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp FDI về bảo vệ môi trường và người lao động


Ảnh minh họa

Về bản chất, doanh nghiệp dù là trong nước hay có vốn đầu tư nước ngoài đều là thực thể kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, nên doanh nghiệp sẽ khó hoặc không tự nguyện và tự nhiên coi bảo vệ môi trường và bảo vệ người lao động là mục đích tự thân, mục đích cao nhất của mình, nếu không có luật pháp và các thể chế kinh tế - xã hội và cạnh tranh thị trường tương ứng định hướng và buộc doanh nghiệp tuân thủ. Điều đó có nghĩa cần có cả hệ thống pháp luật, sự đồng bộ và vận hành đầy đủ các thể chế thị trường lành mạnh, cũng như dư luận xã hội tạo áp lực để doanh nghiệp tự nhận thức, điều chỉnh hành vi, xây dựng và thực thi các quy định nội bộ thực sự coi việc bảo vệ môi trường và người lao động vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển lành mạnh trong văn hóa doanh nghiệp mình. Nói cách khác, Nhà nước kiến tạo có vai trò một nhà tổ chức môi trường kinh doanh để doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, tuân thủ nghiêm túc các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường và người lao động, thực sự coi đó là mục tiêu, động lực cạnh tranh và phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Trên thực tế, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang và sẽ ngày càng củng cố, phát triển. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau gần ba mươi năm mở cửa, Việt Nam đã đạt được nhiều thành công đáng ghi nhận về thu hút FDI: Tính lũy kế đến hết năm 2014, Việt Nam thu hút được là 254,3 tỷ USD với 17.520 dự án. Năm 2015, Việt Nam thu hút thêm được 22,757 tỷ USD vốn đăng ký mới (tăng 12,5%) và vốn thực hiện 14,5 tỷ USD, tăng 17,4% so với năm 2014. Năm 2016, FDI tiếp tục đổ vào Việt Nam khá mạnh, với 2.556 dự án FDI cấp phép mới, với số vốn đăng ký đạt 15.182,3 triệu USD, tăng 27% về số dự án và giảm 2,5% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015. Bên cạnh đó, có 1.225 lượt dự án FDI đã đăng ký điều chỉnh vốn tăng thêm đạt 5.765,1 triệu USD, tăng 50,5% về số dự án và giảm 19,7% về vốn tăng thêm. Ngoài ra, có 2.547 doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần (với tỷ lệ vốn lớn hơn 50% vốn điều lệ hoặc thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện) với tổng vốn đầu tư là 3.425,3 triệu USD. Tổng cộng 3 khoản vốn FDI đăng ký cấp mới, vốn bổ sung và vốn góp, mua cổ phần trong năm 2016 đạt 24.372,7 triệu USD, tăng 7,1% so với năm trước. Vốn thực hiện ước tính đạt 15,8 tỷ USD, tăng 9% so với năm 2015...
Năm 2017, Việt Nam thu hút 2.591 dự án FDI mới, với tổng 21,3 tỷ USD, tăng 3,5% về số dự án và tăng 42,3% về vốn so với cùng kỳ năm 2016; có 1.188 lượt dự án tăng vốn đầu tư đạt 8,4 tỷ USD, tăng 49,2%; có 5.002 lượt nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần là 6,2 tỷ USD, tăng 45,1% so với năm 2016. Vốn FDI thực hiện ước đạt 17,5 tỷ USD, tăng 10,8% so với năm 2016. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 47,6% tổng vốn đăng ký mới và bổ sung; Thanh Hóa có số vốn FDI đăng ký lớn nhất, chiếm 14,8% tổng vốn đăng ký cấp mới của 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới và Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất chiếm 36,4% tổng vốn đăng ký cấp mới trong số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong năm 2017.
Nhìn chung, đến nay, FDI đã có mặt ở cả 63 tỉnh thành trong cả nước và ngày càng mở rộng trên nhiều lĩnh vực, từ khai khoáng, nông - lâm nghiệp đến công nghiệp chế biến và các ngành dịch vụ như bất động sản, y tế, giáo dục, khách sạn,... công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng cao nhất (53,8%), tiếp theo là dịch vụ bất động sản (20,9%), còn lại các ngành khác có tỷ trọng dưới 5%. Tổng cộng có 101 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam, trong đó đứng đầu là Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan, Hong Kong…
Khu vực doanh nghiệp FDI đang chiếm khoảng 25% trong tổng đầu tư xã hội (tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2017 theo giá hiện hành ước tính đạt 1.667,4 nghìn tỷ đồng, tăng 12,1% so với năm 2016 và bằng 33,3% GDP, trong đó: Vốn khu vực nhà nước chiếm 35,7% tổng vốn và tăng 6,7% so với năm trước; khu vực ngoài nhà nước chiếm 40,5% và tăng 16,8%; khu vực FDI chiếm 23,8% và tăng 12,8%); đóng góp 18,7% GDP, khoảng 10% tổng thu ngân sách nhà nước, tạo ra là 3,2 triệu việc làm (năm 2013) và chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm (riêng Samsung tại Việt Nam mỗi năm đã xuất khẩu khoảng 30 tỷ USD, chiếm khoảng 20% tổng xuất khẩu của Việt Nam) và tạo động lực tích cực cải thiện cơ cấu xuất khẩu và cân đối ngoại thương của Việt Nam. Hiện có khoảng 30 doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia.
Lao động trong nhiều doanh nghiệp FDI cũng ngày càng được quan tâm bảo vệ quyền lợi. Qua rà soát, đánh giá các điều khoản trong thỏa ước lao động tập thể của Liên đoàn Lao động tỉnh Bắc Giang thực hiện yêu cầu thành lập thư viện thỏa ước điện tử của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, có tới 80% thỏa ước trên địa bàn tỉnh này có từ 3 - 5 nội dung có lợi cho người lao động nằm ngoài các quy định bắt buộc của pháp luật lao động. Một số doanh nghiệp thực hiện nghiêm việc ký mới, ký lại hoặc bổ sung phụ lục phát sinh với điều khoản có lợi cho người lao động, như: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Nichirin Việt Nam (Khu công nghiệp Quang Châu) có điều khoản cho phép công nhân nghỉ giữa ca để giảm căng thẳng; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Việt Pan Pacific (Thành phố Bắc Giang) khen thưởng lao động tích cực theo tuần, theo tháng; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Haem Vina (Khu công nghiệp Song Khê - Nội Hoàng) phát vitamin cho công nhân nữ có thai và ứng trước tiền lương 6 tháng nghỉ thai sản cho lao động nữ sinh con để bảo đảm chi phí sinh hoạt…
Bên cạnh những thành công kể trên, thu hút FDI trong thời gian qua cũng bộc lộ nhiều bất cập, nổi bật là: Chất lượng chưa tương xứng với số lượng; các dự án FDI có công nghệ trung bình so với thế giới (80%), một phần đáng kể có công nghệ lạc hậu (14%) và chỉ có 6% có công nghệ cao. Việt Nam mới chỉ thu hút khoảng 100/500 Tập đoàn xuyên quốc gia hàng đầu thế giới, trong khi đó Trung Quốc đã thu hút 400. Và ngay cả trong trường hợp thu hút một số tập đoàn công nghệ cao nổi tiếng toàn cầu như Nokia, Samsung,... công đoạn sản xuất tại Việt Nam là công đoạn cuối, tức là chỉ lắp ráp, không đòi hỏi lao động chất lượng cao và công nghệ tiên tiến.
Ngoài ra, do nhiều dự án FDI đưa vào dây chuyền công nghệ lạc hậu, chưa tự giác trong việc tuân thủ quy định về bảo vệ môi trường, nên có tác động tiêu cực đến môi trường, như Công ty Vedan tại Đồng Nai, Công ty Tung Kuang tại Hải Dương, Công ty Long Tech tại Bắc Ninh và mới đây là Công ty Fomosa Đài Loan tại Hà Tĩnh.... Đồng thời, việc các doanh nghiệp FDI khai thác bừa bãi thiếu quy hoạch các tài nguyên khoáng sản từ dầu khí đến than đá, quặng,… đã và đang gây tổn thất lớn nguồn tài nguyên không tái tạo được của Việt Nam.
Mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn yếu, không hỗ trợ nhiều cho khu vực doanh nghiệp trong nước phát triển. Tỷ lệ sản phẩm đầu vào được mua từ các nhà chế biến chế tạo trong nước ở tất cả loại hình doanh nghiệp FDI là tương đối thấp. Các doanh nghiệp FDI nhập khẩu phần lớn thành phần đầu vào thông qua công ty mẹ hay nhập trực tiếp, chỉ số ít sử dụng đầu vào từ các doanh nghiệp tư nhân trong nước. Hiện tượng thất thu thuế và chuyển giá trên thực tế là nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, nhiều dự án FDI còn để xảy ra tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội, tranh chấp lao động, với hàng ngàn cuộc đình công đòi quyền lợi về lương, thưởng, thời gian làm thêm, nghỉ giữa giờ và các chế độ phúc lợi khác (lương thấp, nhà ở không bảo đảm, chất lượng bữa ăn kém, tiền đi lại, phụ cấp nuôi con nhỏ, phụ cấp thâm niên …) giữa những lao động và người sử dụng lao động...
Thực tế còn cho thấy, nhiều công ty hay tập đoàn đang coi trách nhiệm xã hội với môi trường và lao động là một “gánh nặng” hoặc chỉ là cách thức hoạt động maketing, tạo hình ảnh làm sao để có lợi cho doanh nghiệp nhất; không ít các doanh nghiệp đã để xảy ra hàng loạt các sự kiện liên quan đến các mặt hàng nông sản, thực phẩm không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và gây hệ lụy tiêu cực đến môi trường; hơn nữa, không nên ngộ nhận và không nên đồng nhất việc doanh nghiệp làm từ thiện nhiều đã là thực hiện tốt trách nhiệm xã hội. “Sự kiện Vê Đan” cùng một số doanh nghiệp khác ở Đồng Nai đã “đầu độc” sông Thị Vải làm huỷ hoại môi trường mới đây là một minh chứng điển hình cho trường hợp này.
Đặc biệt, tình trạng lao động trong các khu doanh nghiệp có vốn FDI bị thất nghiệp sau tuổi 35 đang trở thành xu hướng gia tăng đáng báo động về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với lao động và áp lực an sinh xã hội từ khu vực doanh nghiệp FDI…
Để tăng cường trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp FDI đối với bảo vệ môi trường và người lao động cần có những đột phá mạnh mẽ về tăng cường nhận thức và chỉ đạo, điều hành việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật thực hiện các đường lối, chiến lược, chính sách quốc gia liên quan đến hoàn thiện các giá trị chuẩn quốc gia mới và các giá trị cụ thể về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với môi trường và lao động trong văn hóa doanh nghiệp, hướng tới sự tin tưởng, đồng thuận, tự hào và hưởng ứng của cộng đồng dân cư và doanh nghiệp vào các giá trị dân chủ, tiến bộ, vì con người, giải phóng con người, tôn trọng quyền con người, tạo điều kiện cho con người phát triển tự do, toàn diện, hài hòa, phát triển xã hội và phục vụ cuộc sống của cá nhân, cũng như của cộng đồng xã hội.
Nhà nước cần tăng cường năng lực thể chế, hoàn thiện cơ sở pháp lý, kiện toàn bộ máy và phân công rõ ràng, trách nhiệm cá nhân cụ thể, tăng cường kết nối và kiểm tra theo quy trình đồng bộ trong công tác bảo vệ môi trường và lao động từ Trung ương đến địa phương; điều chỉnh và cụ thể hóa các chính sách, cơ chế hoạt động, quy trình tiếp nhận, xử lý tranh chấp, với các chế tài nghiêm khắc nhất nhằm nhận diện và loại trừ nhanh chóng, kiên quyết những hành vi vô cảm, vô trách nhiệm, vô đạo đức và những biểu hiện phi nhân văn, ích kỷ; đồng thời hỗ trợ tích cực cho các tổ chức xã hội, bảo vệ môi trường và người lao động.
Với tinh thần đó, từ ngày 01-01-2018 Bộ luật Hình sự mới của Việt Nam có hiệu lực sẽ xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội: theo đó, có 33 trong tổng số 317 tội danh trong Bộ luật Hình sự được áp dụng xử lý đối với pháp nhân thương mại, đó là các tội như buôn lậu, trốn thuế, gây ô nhiễm môi trường, buôn bán hàng cấm và hàng giả... Đây là một bước tiến mới của pháp luật Việt Nam tiệm cận với luật pháp quốc tế.
Từ nay, các doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận (không kể các cơ quan nhà nước, các hội đoàn thể, tổ chức phi lợi nhuận) nếu có vi phạm đều sẽ bị xử lý hình sự, không phân biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay trong nước, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Luật sẽ nghiêm trị các doanh nghiệp phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp hoặc cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng; đồng thời, sẽ khoan hồng đối với doanh nghiệp tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra. Hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại gồm có phạt chính và hình phạt bổ sung, nhưng không có hình phạt tù đối với pháp nhân thương mại. Trong đó hình phạt chính bao gồm phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Hình phạt bổ sung gồm có phạt tiền (khi không áp dụng là hình phạt chính), cấm huy động vốn, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một số hình phạt bổ sung.
Trong trường hợp doanh nghiệp bị xử lý hình sự thì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải ra tòa. Người này thường là giám đốc các doanh nghiệp và họ sẽ không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt giam giữ như xử lý hình sự đối với thể nhân. Luật cũng cho phép người này được mời luật sư bào chữa, tiếp cận với hồ sơ vụ việc, đưa ra các yêu cầu và thực hiện nhiều quyền như tranh luận, khiếu nại, kháng cáo để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp.
Như vậy, có thể thấy, từ năm 2018 là thời điểm khởi đầu cho tư duy mới về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp FDI với môi trường và lao động ở Việt Nam, chấm dứt thời kỳ dễ dãi cấp những ưu đãi cho nhà đầu tư, mà thực chất đằng sau đó là hi sinh quyền lợi của người dân, nhất là việc thu hồi đất của nông dân đền bù với giá rẻ mạt để mở các khu công nghiệp, chính sách hạn chế các hoạt động công đoàn để tạo thuận lợi cho chủ doanh nghiệp, và đặc biệt là những lỏng lẻo, dễ dãi trong kiểm soát môi trường.
Việc bắt đầu xử lý hình sự bằng hình thức phạt tiền và phạt tù, cũng như cấm kinh doanh… đối với các doanh nghiệp vi phạm trách nhiệm xã hội về môi trường và lao động là một thông tin cảnh báo cho các nhà đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam, đòi hỏi các nhà đầu tư phải nâng cao đạo đức kinh doanh và tinh thần trách nhiệm khi làm ăn ở Việt Nam. Những hành vi như trốn thuế, trốn đóng bảo hiểm xã hội hoặc hủy hoại môi trường có thể sẽ khiến doanh nghiệp bị đình chỉ hoạt động. Đó là một bước tiến bộ hướng tới kiện toàn hệ thống pháp luật của Việt Nam, để tiệm cận hòa chung với khung khổ pháp lý các nước trên thế giới.
Trên cơ sở đó, các bộ, ban, ngành địa phương cần chủ động phân công và phối hợp trách nhiệm rõ ràng, cụ thể, đề cao trách nhiệm người đứng đầu và cá nhân được giao; đẩy mạnh tuyên truyền, triển khai nghiêm túc, hiệu quả các quy định của pháp luật, đồng thời tăng cường thanh tra kiểm tra, nhận diện đúng và nhanh chóng, kịp thời xử lý các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường và người lao động; thành lập và giới thiệu các tổng đài, số điện thoại nóng, các trang tin và các văn phòng thông tin, tư vấn và dịch vụ về bảo vệ môi trường và người lao động.
Hơn nữa, cần khuyến khích các thiết chế đại diện, trung gian, các tổ chức phi chính phủ (NGOs), hiệp hội, nhóm lợi ích,… là các tổ chức dân sự đóng vai trò rất lớn trong việc ngăn chặn và bênh vực quyền lợi cho người lao động và người tiêu dùng về những vi phạm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp với môi trường và lao động. Đồng thời, tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát và phản biện xã hội và cả sức ép xã hội cho xây dựng văn hóa doanh nghiệp, đạo đức kinh doanh cho các doanh nhân về trách nhiệm với môi trường và lao động; kịp thời phát hiện và khen thưởng, tôn vinh thích đáng các đơn vị và cá nhân có thành tích, trừng phạt nghiêm khắc các sai phạm cố tình...
Xây dựng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp với môi trường và lao động trong văn hóa doanh nghiệp ở Việt Nam nhằm tăng cường cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua việc tuân thủ chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng,… theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội… là một quá trình lâu dài, không có hồi kết, đòi hỏi sự kiên trì, bền bỉ và không kém phần quyết liệt nhằm khẳng định các giá trị chuẩn quốc gia, hình thành môi trường kinh doanh thượng tôn pháp luật, đề cao đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội, cạnh tranh lành mạnh trong cộng đồng doanh nghiệp và cả trong giới chức quản lý Việt Nam.

Nguyễn Minh Phong(*), Nguyễn Trần Minh Trí(**) (*)Báo Nhân Dân (**) Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam
Xin chờ trong giây lát...

Chương trình Diễn đàn kinh tế xanh vì một quốc gia phát triển bền vững

Phiên bản di động