Doanh nghiệp thép thấp thỏm lo mất thị phần
Trả lời báo chí, ông Nguyễn Văn Sưa - nguyên Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cho biết, mối lo ngại của các doanh nghiệp là có cơ sở khi Trung Quốc đang gặp vấn đề dư cung sản phẩm thép, trong khi việc xuất khẩu sang thị trường Mỹ gặp khó khăn bởi thương chiến. Nước này sẽ phải tìm cách đẩy mạnh tiêu thụ tại các nước khác, trong đó có Việt Nam.
Ảnh minh hoạ |
Tại Việt Nam, nhiều sản phẩm thép đang phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu từ Trung Quốc như thép cán nóng, do các doanh nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu thị trường. Cụ thể, hiện chỉ có nhà máy Formosa sản xuất thép cán nóng. Năm 2018, cơ sở này đạt sản lượng 3,4 triệu tấn, trong khi thị trường tiêu thụ 9 - 10 triệu tấn. Dự kiến cuối năm, sức sản xuất trong nước sẽ đáp ứng được khoảng 70% nhu cầu thép cán nóng khi nhà máy của Công ty CP Tập đoàn Hoà Phát tại Dung Quất (Quảng Ngãi) đi vào hoạt động.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, năm 2018, thép cuộn cán nóng thuộc nhóm 72.08 nhập khẩu vào Việt Nam với số lượng 5,3 triệu tấn, trị giá 3,09 tỉ USD. Trong đó, 88% tổng kim ngạch nhập khẩu chịu thuế suất MFN 0%.
VSA cho biết, 6 tháng đầu năm 2019, Việt Nam nhập khẩu sắt thép thành phẩm và bán thành phẩm các loại hơn 9,8 triệu tấn, trị giá hơn 5,978 tỉ USD. Trong đó, nhập khẩu thép thành phẩm các loại là 7,5 triệu tấn, bao gồm thép hình 183.178 tấn, tăng 62,4%; thép cuộn 577.648 tấn, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm 2018.
Trung Quốc dẫn đầu trong Top 10 thị trường xuất khẩu thép vào Việt Nam nửa đầu năm 2019 với sản lượng hơn 3 triệu tấn, trị giá hơn 1,923 tỉ USD, chiếm 42,5% tổng sản lượng (hơn 7,153 triệu tấn, trị giá gần 4,824 tỉ USD). Các thị trường khác mà Việt Nam nhập khẩu nhiều thép là Nhật Bản, Hàn Quốc, Ðài Loan, Ấn Ðộ.
Hiện nay, thị trường thép trong nước đang gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng chững lại và áp lực cạnh tranh mạnh mẽ. Theo VSA, trong 7 tháng đầu năm 2019, tăng trưởng sản xuất và bán hàng thép lần lượt đạt 7,2% và 10% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi tăng trưởng bán hàng năm 2017 đạt hơn 17% và các năm trước đó khoảng 20%.
Cụ thể, sản xuất thép các loại trong 7 tháng đầu năm 2019 đạt hơn 14,751 triệu tấn, tăng 7,2%; bán hàng thép các loại đạt 13,681 triệu tấn, tăng 10%; xuất khẩu thép các loại đạt 2,826 triệu tấn, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2018.
Trong khi đó, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, đặc biệt là giá quặng (tháng 7/2019, giá quặng từ 90 - 95 USD/tấn, cao hơn 40 USD/tấn so với tháng 1) và giá bán bị cạnh tranh khốc liệt dẫn đến lợi nhuận của nhiều doanh nghiệp thép sụt giảm.
Cũng trong 7 tháng đầu năm, sản xuất thép cuộn cán nóng đạt 2.428.130 tấn, tăng 36,7%; bán hàng thép cuộn cán nóng đạt 2.511.260 tấn, tăng 42,3%, trong đó xuất khẩu đạt 473.870 tấn, tăng 66,9% so với cùng kỳ năm ngoái.
Lãnh đạo một doanh nghiệp thép cho biết, hiện nay, áp lực giá đầu vào tăng cao, giá bán giảm khiến lợi nhuận của doanh nghiệp sụt giảm, trong khi vẫn phải trả lãi vay ngân hàng hằng tháng. Nếu thép giá rẻ từ Trung Quốc tràn vào, doanh nghiệp khó có thể cạnh tranh, nguy cơ thua lỗ là khó tránh khỏi.
Mới đây, Bộ Tài chính công bố dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 125 về biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan để lấy ý kiến trước khi trình Chính phủ. Theo dự thảo, Bộ Tài chính đề xuất tăng mức thuế suất nhập khẩu ưu đãi MFN đối với thép cuộn cán nóng nhóm 72.08 từ 0% hiện nay lên 5% (khả năng tăng thu ngân sách nhà nước với số thuế nhập khẩu tăng là 137,15 triệu USD, tương đương 3.152 tỉ đồng).
Theo Bộ Tài chính, mặt hàng thép cán nóng là đầu vào sản xuất thép cán nguội và các mặt hàng tôn mạ màu có mức thuế suất cơ bản từ 5 - 25%. Việc tăng thuế này phù hợp với nguyên tắc thuế nhập khẩu tăng dần từ nguyên liệu thô đến thành phẩm.