Kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật để phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam: Nhìn nhận từ những biểu hiện, rào cản trên thực tiễn
Mở đầu
Thuật ngữ kinh tế tuần hoàn (KTTH) được đề cấp từ những năm 1970 và ngày càng được sử dụng phổ biến [12]. Thực hiện KTTH đang được xem là một đòn bẩy quan trọng để đạt được các mục tiêu quan trọng của các nhà hoạch định chính sách như tạo ra tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và giảm tác động môi trường [6]. Đặc biệt, trong bối cảnh thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu, tiếp cận chuyển đổi sang KTTH sẽ góp phần đạt được trực tiếp 8 trong 17 mục tiêu phát triển bền vững và sẽ tiếp tục lan tỏa để thúc đẩy đạt được các mục tiêu khác [1]. Hiện nay, chuyển đổi sang KTTH đang là một xu hướng mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới như EU, Trung Quốc và cả các quốc gia ASEAN bởi chính những lợi ích mà nó mạng lại. Ở Việt Nam, phát triển KTTH được xem là một trong những chủ trương lớn để thực hiện nhiệm vụ về “quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên; bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu”, có thể xem là giải pháp đột phá để giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế với môi trường trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa nền kinh tế, tài nguyên ngày càng cạn kiệt và suy thoái, ô nhiễm môi trường gia tăng. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) của Việt nam giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2045 đã đưa ra định hướng “phát triển các mô hình KTTH để sử dụng hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất” [2]. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở ASEAN đưa quy định về áp dụng KTTH vào trong Luật Bảo vệ môi trường với 01 quy định riêng về KTTH và nhiều quy định khác để thúc đẩy áp dụng KTTH trong tất cả các ngành, lĩnh vực của đời sống. Tuy nhiên, để chuyển đổi thành công sang KTTH Việt Nam vẫn còn phải giải quyết nhiều bài toán thực tiễn đặt ra từ hoàn thiện chính sách, phát triển công nghệ, thị trường…
1. Nhận thức về kinh tế tuần hoàn
1.1 Khái niệm kinh tế tuần hoàn
Theo Quỹ Ellen MacArthur (2015) thì KTTH là một hệ thống công nghiệp được phục hồi và tái tạo theo thiết kế, dựa trên ba nguyên tắc chính là bảo tồn và tăng cường vốn tự nhiên, tối ưu hóa năng suất tài nguyên và thúc đẩy hiệu quả của hệ thống [11]. Theo Uỷ ban Châu Âu thì “nền KTTH là nền kinh tế mà trong đó giá trị của sản phẩm, nguyên vật liệu và tài nguyên được duy trì trong nền kinh tế càng lâu càng tốt, và tạo ra chất thải tối thiểu” [10]. Mô hình kinh tế tuyến tính chỉ quan tâm đến việc khai thác tài nguyên, sản xuất và vứt bỏ sau tiêu thụ, dẫn đến việc tạo ra một lượng phế thải khổng lồ thì mô hình KTTH chú trọng việc quản lý và tái tạo tài nguyên theo một vòng khép kín nhằm tránh tạo ra phế thải. Trong bối cảnh hiện nay, chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính sang nền KTTH là cách tiếp cận hữu hiệu để giải quyết tốt môi quan hệ giữa kinh tế với môi trường, tạo ra khả năng phục hồi lâu dài, cơ hội kinh doanh cũng như mang lại những lợi ích môi trường và xã hội (hình 1) [12]. Trên cơ sở các khái niệm, nguyên tắc, đặc điểm của KTTH được các tổ chức quốc tế, nhà khoa học đưa ra, Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã hệ thống và chỉ rõ “KTTH là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường”.
Hình 1: Sự chuyển đổi từ kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn (Nguồn: European Recycling Platform, 2017 [5]) |
1.2. Một số điểm nhấn trong kinh tế tuần hoàn
KTTH là một hệ thống công nghiệp được phục hồi và tái tạo theo thiết kế, dựa trên ba nguyên tắc chính là [11]: (i) duy trì và tăng cường vốn tự nhiên; (ii) tối ưu hóa năng suất tài nguyên thông qua tuần hoàn các sản phẩm, các linh kiện và vật liệu để sử dụng được ở mức độ độ thỏa dụng cao nhất tại tất cả thời gian trên cả khía cạnh kỹ thuật và các mức độ quyết tâm như: phục hồi, chia sẻ, tối ưu và lặp lại; (iii) thúc đẩy hiệu suất toàn hệ thống bằng cách tối thiểu các ngoại ứng tiêu cực ở tất cả các mức độ nỗ lực.
KTTH không chỉ đơn thuần là về quản lý chất thải và tận dụng chất thải, mà nó bao gồm một hệ thống với đầy đủ 5 khâu: (i) Thiết kế để hướng tới việc tạo ra các sản phẩm xanh, tăng khả năng sử chữa, phục hồi, tái chế, tái sử dụng của các sản phẩm, linh kiện, cấu kiện. Thiết kế trong KTTH không chỉ đơn thuần là thiết kế sản phẩm mà còn tính tới cả việc thiết kế chất thải của nó, thiết kế cho tương lai, sử dụng chất thải như một nguồn tài nguyên, bảo tồn và mở rộng những gì đã có, hợp tác để tạo ra giá trị chung, kết hợp công nghệ kỹ thuật số và giá cả cùng các cơ chế phản hồi khác phải phản ánh chi phí thực; (ii) Sản xuất thông qua áp dụng các biện pháp sản xuất sạch hơn, giảm phát thải và thực hiện cả tuần hoàn các nguyên vật liệu ngay trong khâu sản xuất; (iii) Tiêu dùng thông qua việc cung cấp dịch vụ tốt hơn, tăng cường trách nhiệm của người tiêu dùng đối với môi trường sinh thái; (iv) Quản lý chất thải bằng việc phân loại, thu gom tại cuối vòng đời, tái chế chất thải; và (v) Từ chất thải trở lại thành tài nguyên gồm có tái chế chất thải, tái sử dụng tài nguyên.
Thực hiện KTTH cần có sự tham gia của tất cả các bên liên quan từ khu vực nhà nước ở trung ương và địa phương, doanh nghiệp khai thác khoáng sản và nguyên liệu thô, các nhà chế biến, sản xuất, phân phối, bán lẻ, người tiêu dùng, người thu gom rác...(hình 2) [5]. Trong đó, khu vực công đóng vai trò quan trọng để kiến tạo và thúc đẩy hệ sinh thái tuần hoàn. Theo Ellen MacArthur Foundation thì: “Các tổ chức, chính phủ và thành phố đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra và tạo điều kiện cho một nền KTTH xuất hiện và phát triển mạnh. Họ có vai trò định hướng và tạo động lực để đổi mới và thúc đẩy đầu tư. KTTH cung cấp một khuôn khổ cho phép chính phủ và các thành phố hiện thực hóa nhiều tham vọng kinh tế, môi trường và xã hội của họ [4].
Hình 2: Kinh tế tuần hoàn và sự tham gia của các bên liên quan (Nguồn: European Recycling Platform, 2017 [5]) |
1.3. Những rào cản chính để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn
Dưới góc độ một quốc gia hay một cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khi khởi động việc chuyển đổi sang KTTH đều đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức được nhiều nghiên cứu, đánh giá của các học giả trên thế giới chỉ ra.
Ở cấp chính phủ, OECD (2019) đã chỉ ra 13 rào cản chính để các quốc gia chuyển đổi sang KTTH (hình 3). Trong đó, rào cản về văn hóa, các quy định, tài chính và tầm nhìn là những vấn đề nổi cộm để thực hiện chuyển đổi sang nền KTTH mà chính phủ các nước gặp phải bao gồm văn hóa, thể chế, nguồn lực tài chính, tầm nhìn toàn diện, thông tin đầy đủ, quy định không rõ ràng, rủi ro về tài chính, nhận thức, quy mô, nguồn lực con người, sự tham gia của khu vực tư nhân, sự sẵn sàng của chính trị và các giải pháp công nghệ [9].
Hình 3: Các rào cản để chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn (Nguồn: OECD, 2019 [9]) |
1.4. Những yếu tố thúc đẩy kinh tế tuần hoàn
Bên cạnh những rào cản thực hiện KTTH ở trên, dưới góc độ hoạch định chính sách, pháp luật của mỗi quốc gia cần xem xét đến những yếu tố có vai trò thúc đẩy tiến trình chuyển đổi này trên phạm vi cả nước, bao gồm:
- Yếu tố thể chế, chính sách, pháp luật;
- Yếu tố quản trị;
- Yếu tố trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong thực hiện KTTH;
- Yếu tố văn hóa, ý thức, trách nhiệm và hành vi trong quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường;
- Yếu tố phát triển của khoa học và công nghệ, internet vạn vật (hình 4).
Hình 4: Sự gặp tương tác giữa kinh tế tuần hoàn và internet vạn vật (Nguồn: OECD, 2017 [3]) |
2. Kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
2.1. Kinh tế tuần hoàn trong chiến lược, chương trình và đề án phát triển
Ở Việt Nam, KTTH chính thức được chỉ ra như một giải pháp về quản lý, phân bổ, sử dụng hiệu quả tài nguyên; bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu trong Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021 – 2025 và Chiến lược phát triển KTXH 2021 – 2030, tầm nhìn 2045 của Việt Nam lần lượt như sau: (i) xây dựng lộ trình, cơ chế, chính sách, pháp luật để hình thành, vận hành mô hình KTTH; (ii) “khuyến khích phát triển mô hình KTTH để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất”. Trong một số Chiến lược, Kế hoạch hành động của một số ngành, lĩnh vực đã cụ thể hóa định hướng chuyển đổi sang KTTH như định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chiến lược Quốc gia về chăn nuôi, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2011 - 2030. Cùng với đó, rà soát mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trong các chiến lược, chương trình và đề án (Chiến lược bảo vệ môi trường Quốc gia; Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn; Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam; Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021 – 2030; Đề án phát triển công nghiệp môi trường; Đề án phát triển dịch vụ môi trường; Đề án kinh tế số.) cho thấy đã có nhiều nội dung liên quan đến một hoặc một số mục tiêu hướng đến của KTTH như giảm sử dụng nguyên liệu, nhiên liệu hóa thạch, kéo dài vòng đời sản phẩm, giảm phát sinh chất thải và giảm tác động xấu đến môi trường hay các giải pháp để thúc đẩy tái chế, tái sử dụng, giảm thiểu, sửa chữa, phục hồi, tân trang…
2.2. Kinh tế tuần hoàn trong hệ thống pháp luật của Việt Nam
Song song với quá trình xây dựng Chiến lược phát triển KTXH của đất nước, giai đoạn 2019 đến nay Việt Nam tiến hành sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường 2014 và chính thức được Quốc hội phê chuẩn là Luật Bảo vệ môi trường 2020 với các quy định mới, phù hợp với kinh nghiệm quốc tế và kỳ vọng sẽ làm thay đổi hành vi của các chủ thể trong xã hội, tạo ra những động lực mới để khuyến khích đầu tư cho bảo vệ môi trường theo cách tiếp cận dựa vào thị trường. Một trong những nội dung được đánh giá là tiến bộ nhất chính là Luật Bảo vệ môi trường 2020 lần đầu tiên đưa ra quy định về KTTH. Theo đó, ngoài khái niệm về KTTH, Luật đưa ra trách nhiệm “các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện lồng ghép KTTH ngay từ giai đoạn xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án phát triển; quản lý, tái chế, tái sử dụng chất thải”; “cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có trách nhiệm thiết lập hệ thống quản lý và thực hiện các biện pháp để giảm khai thác tài nguyên, giảm chất thải, nâng cao mức độ tái sử dụng và tái chế chất thải ngay từ giai đoạn xây dựng dự án, thiết kế sản phẩm, hàng hóa đến giai đoạn sản xuất, phân phối. Đặc biệt, để triển khai được quy định này, Luật giao Chính phủ quy định tiêu chí, lộ trình, cơ chế khuyến khích thực hiện KTTH phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.
Bảng 1: So sánh quy định, chính sách của Việt Nam với Trung Quốc và các quốc gia Châu Âu về kinh tế tuần hoàn (Nguồn: kết quả rà soát của tác giả, 2021). |
* Ghi chú: dấu X cho thấy Việt Nam hoặc các quốc gia trên thế giới có quy định liên quan đến thực hiện kinh tế tuần hoàn
3. Biểu hiện và khả năng phát triển kinh tế tuần hoàn trong thực tiễn
Vận dụng tiếp cận hệ thống của một nền kinh tế, theo các góc độ tiếp cận khác nhau để xem xét sự vận hành của các hoạt động KTXH cho thấy dưới mỗi cách tiếp nhận sẽ cho thấy được biểu hiện và khả năng phát triển KTTH như nhìn nhận theo khu vực sản xuất, khu vực tiêu dùng hay khu vực trung gian (khu, cụm công nghiệp; khu đô thị, khu dân cư). Những biểu hiện và khả năng phát triển KTTH ở Việt Nam như sau:
3.1. Tiếp cận từ khu vực sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế
Thực tiễn cho thấy, Việt Nam chưa có những mô hình KTTH mang đầy đủ nội hàm nhưng xét theo mục tiêu, nội dung thì đã có những mô hình hay phương thức kinh doanh mang những biểu hiện của mô hình này khá sớm. Đối với các ngành được phân loại ở cấp 1 đều có thể ứng dụng KTTH vào quá trình vận hành trong chuỗi giá trị gia tăng hoặc gián tiếp có vai trò hỗ trợ trong quá trình ứng dụng lý thuyết của KTTH. Bảng 2 dưới đây phân tích những biểu hiện hoặc phương thức kinh doanh theo hướng tuần hoàn.
Bảng 2. Biểu hiện và khả năng áp dụng kinh tế tuần hoàn theo một số ngành, lĩnh vực ở Việt Nam (Nguồn: kết quả rà soát của tác giả, 2021) |
Nhìn chung, ở Việt Nam các ngành đều có những khía cạnh có thể ứng dụng lý thuyết của KTTH hướng tới mục tiêu chung. Các tác nhân quan trọng trong mắt xích hướng tới KTTH đầu tiên phải kể đến trong nội tại các ngành, tiếp đến là các công ty cung cấp dịch vụ môi trường (bên trung gian), các cơ sở, làng nghề thu gom, tái chế, của hàng buôn bán, trao đổi đồ cũ, … Vì vậy cần có những chính sách thích hợp để thúc đẩy mạnh mẽ sự hoạt động và tham gia sâu vào quá trình tuần hoàn của những tác nhân này.
3.2. Tiếp cận từ khu vực tiêu dùng trong nền kinh tế
Phân tích, đánh giá theo 2 khu vực tiêu dùng gồm tiêu dùng trung gian và tiêu dùng cuối cùng lần lượt cho thấy thực tiễn như sau: (i) Tiêu dùng trung gian để thúc đẩy chuyển đổi chất thải từ ngành này trở thành đầu vào của ngành khác trong nền kinh tế hiện được thực hiện thông qua một số mô hình như thu gom rác thải của các cá nhân, tái chế chất thải ở các làng nghề với công nghệ thấp, nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao; mức độ tuần hoàn nước gần như chưa có, chủ yếu được xả thải trực tiếp ra môi trường tự nhiên sau khi xử lý hoặc chưa xử lý; (ii) Khu vực tiêu dùng cuối cùng chưa đạt được tiêu dùng xanh do thiếu quy định chính sách (đối với chi tiêu công của chính phủ), giá thành và thị hiếu, chất lượng các sản phẩm tái chế chưa đáp ứng yêu cầu.
3.3. Tiếp cận từ khu vực quản lý chất thải
Ở Việt Nam nguồn phát sinh chất thải rắn, nước thải, khí thải phát sinh từ hộ gia đình, khu thương mại dịch vụ, công sở và khu vực công cộng, dịch vụ công cộng và các hoạt động sinh hoạt của cơ sở sản xuất [7], [8]. Đối với chất thải rắn ngoài các thành phần chủ yếu là các thành phần hữu cơ (chất thải thực phẩm, giấy, vải, bìa các tông, rác vườn...) và vô cơ (nhựa, cao su, kim loại...), chất thải sinh hoạt còn có thể lẫn các chất thải khác như chất thải điện tử, chất thải có thể tích lớn, pin, dầu thải... Trong những năm gần đây, chất thải khó phân hủy từ các đồ gia dụng nhựa, túi ni lông có xu hướng gia tăng đang là một trong những vấn đề thách thức đối với công tác xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam.
Bảng 3: Hiện trạng các bãi chôn lấp ở Việt Nam (Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường Quốc gia 2019, Niêm giám thống kê 2019) |
3.4. Tiếp cận ở các mô hình trung gian (meso)
Ngoài nhìn nhận KTTH ở cấp độ quốc gia, khu vực sản xuất, tiêu dùng thì một cách tiếp cận đang được đề cập phổ biến và được xem là có tiềm năng là cấp độ các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề, khu đô thị, khu dân cư tập trung để hình thành ra các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề tuần hoàn; các khu đô thị, khu dân cư tuần hoàn. Ở góc độ tiếp cận này, Việt Nam đã có những mô hình, quy định gắn liền với một hoặc một số nguyên tắc, mục tiêu hoặc biện pháp thực hiện KTTH như khu công nghiệp sinh thái, khu đô thị xanh, làng sinh thái, kinh tế xanh cấp xã, cấp cộng đồng… Tuy nhiên, do chưa đồng bộ về các quy định pháp luật, nhận thức và thực tiễn triển khai dẫn đến việc áp dụng phổ biến trong thực tiễn chưa nhiều, thậm chí một số mô hình như làng sinh thái đang bị phai mờ trong thực tiễn.
4. Thuận lợi, khó khăn để chuyển đổi từ kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam dưới góc độ chính sách, pháp luật
4.1. Thuận lợi
Những điểm thuận lợi chính để Việt Nam chuyển đổi sang KTTH dưới góc độ chính sách, pháp luật như sau:
(1) Chủ trương về phát triển KTTH đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng, đặc biệt là trong Chiến lược phát triển KTXH giai đoạn 2021 – 2030. Hệ thống pháp luật đang dần được hoàn thiện với cách tiếp cận dựa vào thị trường, tôn trọng các nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường ngày càng được nhất quán và đồng bộ. Ngoài ra, Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực đã thể chế hóa quy định về KTTH, lấy tư duy về chuyển đổi sang KTTH là cơ sở để xây dựng nhiều công cụ chính sách về bảo vệ môi trường.
(2) Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ trong nước, cách mạng công nghiệp 4.0 và internet đã và đang góp phần hình thành ra những giải pháp mới, mô hình kinh doanh mới theo hướng tiết kiệm, hiệu quả hơn.
(3) Sự vào cuộc của các bộ, ngành và địa phương, cộng đồng doanh nghiệp để tiếp cận và triển khai chủ trương về phát triển KTTH ngày càng mạnh mẽ.
(4) Nhận thức, quyền lực và nhu cầu của người tiêu dùng trong nước ngày càng cao sẽ tạo ra áp lực và động lực đổi mới cho khu vực sản xuất, cung ứng các dịch vụ trong nền kinh tế để thực hiện sản xuất sạch hơn, sản xuất và cung ứng các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ thân thiện với môi trường, giảm thiểu các tác động xấu đến môi trường.
(5) Sự vào cuộc của cộng đồng quốc tế, xu hướng ngày càng phổ biến trong áp dụng KTTH của các quốc gia trên thế giới bao gồm cả quốc gia phát triển, đang phát triển và quốc gia trong khu vực. Đặc biệt, sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, các chuyên gia, nhà khoa học trong việc ủng hộ chủ trương chuyển đổi này ngày càng mạnh mẽ để cung cấp các bài học thành công, thất bại, các kinh nghiệm trong xây dựng và hoàn thiện chính sách.
4.2. Khó khăn, vướng mắc
Mặc dù có những thuận lợi để khởi động cho tiến trình chuyển đổi sang KTTH nhưng cũng còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần phải tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện, cụ thể:
(1) Thiếu tư duy hệ thống trong hoạch định, điều hành chính sách, pháp luật và thực tiễn sản xuất, kinh doanh. Tiếp cận hệ thống là thìa khóa của KTTH, KTTH đòi hỏi từ các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, các chủ dự án đầu tư, chủ cơ sở sản xuất kinh doanh phải tư duy lại về cách thức phát triển, phương thức phối hợp, điều hành đến thiết kế sản phẩm, quy trình phân phối hàng hóa. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc chưa đồng bộ trong hệ thống chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, sự phối hợp chưa hiệu quả giữa các cấp, các ngành còn hạn chế; tư duy liên ngành, liên vùng trong xây dựng, phê duyệt các quy hoạch, kế hoạch phát triển.
(2) Tính hiệu lực, hiệu quả của các quy định pháp luật còn hạn chế. Thực tiễn cho thấy, việc triển khai thực thi các văn bản, quy định pháp luật trong thực tế còn có một khoảng cách khá xa, nhiều đơn vị, tổ chức chưa thực sự nghiêm túc và chủ động trong việc triển khai các quy định pháp luật về hiện hành.
(3) Các tổ chức, cá nhân sản xuất và cá nhân sản xuất - kinh doanh vẫn lấy mục tiêu ngắn hạn về lợi nhuận mà chưa cân nhắc đến các lợi ích lâu dài, bền vững trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Chính vì vậy, nhiều tổ chức cá nhân bất chấp các quy định về môi trường để giảm thiểu chi phí ngắn hạn, tình trạng vi phạm pháp luật về môi trường gia tăng.
(4) Thị trường các lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ môi trường, sản phẩm thân thiện với môi trường, sản phẩm tái chế chưa thực sự được quan tâm, hỗ trợ để vận hành đồng bộ với xu hướng của thế giới.
(5) Vai trò của Nhà nước trong tạo dựng, hỗ trợ phát triển, điều tiết thị trường và hành vi của các chủ thể thị trường để hướng đến mục tiêu khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, thúc đẩy hoạt động sản xuất và tiêu dùng các hàng hóa và dịch vụ môi trường, sản phẩm thân thiện môi trường còn yếu.
(6) Một số công cụ chính sách chưa đồng bộ, thống nhất để điều tiết hiệu quả hành vi của các chủ thể về các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng minh bạch, công bằng, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững trong nền kinh tế chưa đầy đủ; chưa tạo ra các áp lực tài chính và động lực để thúc đẩy đổi mới công nghệ, nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, người tiêu dùng nhằm thực hiện các mục tiêu của KTTH.
(7) Hệ thống tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực, hệ thống thông tin, dữ liệu và cơ chế kiểm tra, giám sát việc triển khai, áp dụng KTTH chưa được hình thành. Đặc biệt, thiếu một cơ quan điều phối việc triển khai, thực thi KTTH.
(8) Hành vi của người sản xuất, người tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường còn chưa phổ biến. Sản xuất sạch, sản xuất có trách nhiệm, tiêu dùng sạch, tiêu dùng bền vững vẫn là khái niệm được nêu trong các định hướng chính sách, văn bản pháp luật mà chưa phổ biến áp dụng trên thực tế. Ý thức, trách nhiệm về khai thác, sử dụng, quản lý tài nguyên theo hướng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững; thu gom, phân loại, tái chế, tái sử dụng chất thải trong các hoạt động kinh tế, dân sinh vẫn còn hạn chế, hành vi xả thải bừa bãi vẫn diễn ra phổ biến ở nhiều đối tượng.
(9) Nguồn lực tài chính cho thực hiện việc chuyển đổi sang KTTH đòi hỏi rất lớn nhưng thực tiễn cho thấy nguồn lực này chưa đáp ứng yêu cầu. Chưa tạo ra được những động lực đột phá để huy động nguồn lực, đặc biệt là khu vực ngoài Nhà nước. Cơ chế chính sách ưu đãi về đầu tư trong xử lý chất thải rắn đã được thể chế hóa nhưng thực tiễn triển khai áp dụng còn nhiều khó khăn do việc tiếp cận các nguồn vốn vay còn quá nhiều hạn chế, chưa thực sự khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia.
(10) Cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ quản lý tài nguyên môi trường còn hạn chế; chưa đáp ứng yêu cầu, công nghệ sản xuất còn lạc hậu. Công nghệ sản xuất nhìn chung tụt hậu so với mức trung bình của thế giới, tiêu hao nhiều năng lượng, tài nguyên và phát sinh nhiều chất thải, gây ô nhiễm môi trường. Công nghệ thu gom, xử lý, tái chế, tái sử dụng chất thải còn thiếu đồng bộ, chủ yếu vẫn là chôn lấp. Vị trí của Việt Nam về mức độ sẵn sàng cho Cách mạng công nghiệp 4.0 so với các nước trong khu vực và trên thế giới còn khá thấp (Bảng 4).
Bảng 4: Chỉ số sẵn sàng cho công nghiệp 4.0 của các quốc gia ASEANNguồn: Viện Nghiên cứu Kinh tế Đông Á và ASEAN, 2020 |
(11) Hệ thống thông tin, dữ liệu và cơ chế chia sẻ chưa đáp ứng yêu cầu để giám sát, đánh giá các mục tiêu của KTTH nói chung và trong lĩnh vực quản lý chất thải nói riêng.
5. Kiến nghị hoàn thiện một số chính sách, quy định pháp luật để phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
- Truyền thông, giáo dục, nâng cao nhận thức của cán bộ các cấp, các ngành; người dân về định hướng chính sách, quy định pháp luật, các chiến lược, chính sách và đề án phát triển ở các cấp, các ngành... về KTTH;
- Thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo hướng thể chế hóa các nguyên tắc thị trường trong chi phí và nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” để xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường, đặc biệt là trong xử lý chất thải. Phát huy vai trò của các công cụ kinh tế, cơ chế tài chính để điều tiết, thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang KTTH. Nhất là các quy định đã được nêu trong Luật Bảo vệ môi trường và pháp luật khác có liên quan như phát triển ngành công nghiệp môi trường, phát triển dịch vụ môi trường, tín dụng xanh, trái phiếu xanh…
- Hình thành cơ quan điều phối, chia sẻ bài học, hướng dẫn về thực hiện KTTH trên phạm vi toàn quốc. Cần xây dựng bộ tiêu chí nhận diện, đánh giá các mô hình KTTH để làm căn cứ áp dụng. Xây dựng hướng dẫn kỹ thuật về áp dụng KTTH trong các ngành sản xuất, kinh doanh. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về sản phẩm, hàng hóa để thúc đẩy thị trường nguyên liệu, vật liệu tái chế (nhất là tiêu chuẩn, tiêu chí đối với các sản phẩm tái chế, tái sử dụng, …).
- Tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho KTTH. Trong đó, ưu tiên cơ cấu lại đầu tư công theo hướng xanh, khuyến khích, thu hút đầu tư ngoài ngân sách theo phương thức đối tác công – tư cho phát triển kết cấu hạ tầng cho công nghiệp xanh, khu công nghiệp sinh thái, khu đô thị tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ và dịch vụ môi trường. Xây dựng và phát triển các định chế tài chính hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất sạch hơn, các doanh nghiệp áp dụng mô hình KTTH. Đẩy mạnh đổi mới, phát triển các tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã áp dụng mô hình KTTH. Hoàn thiện cơ chế thúc đẩy phát triển thị trường “tín dụng xanh”, trái phiếu xanh.
- Thực hiện các hoạt động đổi mới công nghệ, từng bước áp dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường và có lộ trình loại bỏ các công nghệ lạc hậu, tiêu hao nguyên nhiên liệu gây ô nhiễm môi trường tại các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp tiêu dùng như dệt may, da giày, giấy, chất tẩy rửa… Thúc đẩy hình thành cơ chế liên kết trên nền tảng của khoa học và công nghệ, internet vạn vật; phát triển các mô hình khu công nghiệp sinh thái, khu đô thị sinh thái, đô thị tuần hoàn (đô thị xanh).
-Khuyến khích sản xuất các sản phẩm, cung ứng từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh đáp ứng tiêu chí của mô hình KTTH thông qua các chính sách về thông tin, truyền thông và quảng bá sản phẩm từ các mô hình sản xuất – kinh doanh đáp ứng tiêu chí về KTTH. Thúc đẩy tiêu thụ các sản phẩm được sản xuất, cung ứng từ các hoạt động sản xuất – kinh doanh đáp ứng tiêu chí của mô hình KTTH thông qua các biện pháp thiết lập hệ thống phân phối và nâng cao năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm thân thiện môi trường, sản phẩm tái chế, tái sử dụng.
- Hoàn thiện hệ thống hạ tầng thu gom, phân loại, xử lý chất thải (rác thải, nước thải) đảm bảo tính đồng bộ, thúc đẩy tính liên kết vùng, địa phương; liên kết giữa đô thị - nông thôn trong thu gom, xử lý nước thải, rác thải.
Kết luận
Phát triển KTTH là giải pháp tất yếu để nâng cao chất lượng tăng trưởng, cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm sản xuất và tiêu dùng bền vững; góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo; là hạt nhân để thực hiện chủ trương phân bổ, quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường cho phát triển bền vững trong bối cảnh của thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu. Thực hiện KTTH không phải là công việc của riêng một cá nhân, một tổ chức mà phải là sự tham gia và nỗ lực thay đổi của toàn hệ thống với một cách tiếp cận chung để vận hành; thiết lập một chuỗi giá trị gia tăng tuần hoàn với tầm nhìn chia sẻ. Thúc đẩy sự tham gia của toàn xã hội, đặc biệt là khu vực công, tư là động lực để thúc đẩy các mô hình KTTH. Tất cả các ngành, lĩnh vực, vùng miền cần được khuyến khích chuyển đổi sang KTTH. Mỗi quốc gia cần lựa chọn ra được các ngành, lĩnh vực, khu vực ưu tiên để chuẩn bị các điều kiện về chính sách, nguồn lực và thể chế để khởi động cho tiến trình chuyển đổi sang KTTH toàn diện. Ở Việt Nam, để thực hiện được các đề xuất chính sách ở trên trong ngắn hạn cần tập trung đưa các quy định trong Luật Bảo vệ môi trường, đặc biệt là cần thiết phải xây dựng kế hoạch hành động quốc gia, bộ tiêu chí chung ở cấp quốc gia, tiêu chí đối với các ngành, lĩnh vực và đối với từng loại hình dự án đầu tư, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các chính sách đặc thù để khuyến khích thực hiện KTTH; đưa những công cụ chính sách có vai trò thúc đẩy áp dụng KTTH vào thực tiễn. Hình thành, vận hành nền tảng kết nối thông tin, chia sẻ cơ chế, chính sách, bài học kinh nghiệm trong thực hiện KTTH. Bên cạnh đó, cần xem xét sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật để đẩy thực hiện KTTH như thuế bảo vệ môi trường, thuế giá trị gia tăng, bảo người tiêu dùng, pháp luật về đầu tư công.
(Bài viết sử dụng kết quả nghiên cứu của Nhiệm vụ “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp thúc đẩy áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn cho một số lĩnh vực sản xuất tại Việt Nam” do Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường chủ trì thực hiện).
Lại Văn Mạnh, Nguyễn Trọng Hạnh, Nguyễn Thị Thanh Huyền
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
1. Đảng cộng sản Việt nam Khóa 13, "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 -2030".
Tiếng Anh
2. Andrew Morl (2015), Delivering the circular economy: a toolkit for policymakers, Foundation Ellen MacArthur.
3. CEIOT (2020), "A Framework for Pairing Circular Economy and IoT".
4. Ellen MacArthur Foundation, "Institutions, Governments & Cities".
5. European Recycling Platform (2017), "Circular Economy: Roles and Responsibilities for involved stakeholders".
6. Jinhui Li, "Role of circular economy in achieving Sustainable Development Goals( SDGs): A Case Study of China".
7. Maksimchernenko (2019), How 3R, circular economy and sharing economy trends are interrelated, Travel and Ideas.
8. MONRE Viet Nam (2020), Current National environmental report 2019, Dantri publishing house, Ha Noi.
9. OECD (2019), The OECD Centre for Entrepreneurship.
10. S. H. R. O. Andrew Morlet (2015), Delivering the Circular Economy A toolkit for policy makers, Ellen MacArthur Foundation.
11. Vietnam Communist Party (2021), National Strategy for Socio Economic Development 2021-2030, version 2045, Hanoi.
12. William McDonough (2018), "Circular Economy in Cities Evolving the model for a sustainable urban future, Switzerland : World Economic Forum".