Nam Định: Hiệu quả từ mô hình phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn

28/10/2024 13:37 Quản lý nguồn thải
Việc phân loại rác thải tại nguồn tại Nam Định những năm qua đã mang lại nhiều lợi ích; nhiều loại rác thải được thu gom, tái chế thành tài nguyên, mang lại lợi ích kinh tế, góp phần bảo vệ môi trường.

Khi kinh tế phát triển, đi cùng mức sống người dân không ngừng được nâng cao là sự gia tăng chất thải phát sinh cả về số lượng và chủng loại, trong đó chất thải rắn sinh hoạt. Nhận thức được điều này, những năm qua công tác quản lý và xử lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Nam Định đã được chú trọng.

Từ năm 2007, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, tỉnh Nam Định đã nỗ lực tập trung triển khai công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường nói chung và công tác quản lý chất thải rắn nói riêng. Tỉnh đã quan tâm và đầu tư kinh phí trên 1% tổng chi ngân sách của tỉnh cho công tác bảo vệ môi trường, giúp phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm, cải thiện, tăng cường hiệu quả công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt nâng cao năng lực quản lý chất thải rắn sinh hoạt, góp phần hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới của tỉnh.

Nam Định: Hiệu quả từ mô hình phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn

Người dân thực hiện phân loại rác thải tại nguồn ở khu vực thị tứ, xã Nghĩa Thái, huyện Nghĩa Hưng, Nam Định.

Các mô hình phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn đang áp dụng thực hiện hiệu quả tại các địa phương gồm: Mô hình "Phân loại chất thải rắn tại nguồn và xử lý rác hữu cơ làm phân bón tại hộ gia đình" tại xã Hải Lý (huyện Hải Hậu); Mô hình "Hố rác hữu cơ di động" tại xã Thọ Nghiệp (huyện Xuân Trường), xã Nam Cường (huyện Nam Trực), xã Yên Cường (huyện Ý Yên); Mô hình "Phân loại rác thải tại hộ gia đình bằng thùng rác 2 ngăn" tại xã Nghĩa Minh (huyện Nghĩa Hưng)...

Đến nay toàn tỉnh có 195/226 xã, phường, thị trấn đã triển khai thực hiện các mô hình phân loại rác thải tại nguồn và xử lý rác hữu cơ tại hộ gia đình. Các địa phương triển khai phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn đã thực hiện thí điểm tại các hộ gia đình cán bộ nòng cốt như: Bí thư, xóm trưởng, Chi hội Trưởng các Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh... và một số hộ dân. Sau khi đánh giá hiệu quả và nhận thức được lợi ích của việc triển khai phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn mang lại, các mô hình nhận được sự ủng hộ, đồng thuận tham gia từ cộng đồng người dân và đang được nhân rộng trên địa bàn toàn thôn, xóm, tổ dân phố của các xã, thị trấn.

Tại những địa phương triển khai mô hình phân loại, xử lý rác thải hữu cơ tại hộ gia đình (hố rác hữu cơ di động) đã giảm thiểu được khoảng 30 - 40% lượng rác phải đem đi xử lý tại khu xử lý rác thải tập trung. Hiện nay, tại tỉnh Nam Định, chất thải rắn sinh hoạt được xử lý bằng phương pháp chôn lấp hoặc đốt. Việc giảm thiểu rác hữu cơ tại nguồn đã góp phần giảm áp lực xử lý cũng như giảm thiểu mùi phát sinh tại khu xử lý rác thải quy mô cấp xã hiện có (các bãi chôn lấp và lò đốt rác). Đặc biệt, việc xử lý rác thải hữu cơ tại nguồn đã làm tăng tuổi thọ của các khu xử lý rác thải trong giai đoạn hiện nay, khi khối lượng rác thải phát sinh ngày càng nhiều mà địa phương chưa thể đầu tư ngay các khu xử lý rác thải quy mô vùng, liên xã, huyện.

Đến nay, hoạt động thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt khu vực nông thôn đã từng bước đi vào nền nếp và đạt được những kết quả nhất định. Hầu hết rác thải đã được thu gom, vận chuyển và xử lý tại các khu xử lý tập trung của các địa phương. Giai đoạn 2022 - 2024, tỷ lệ rác thải sinh hoạt khu vực nông thôn được thu gom, xử lý đạt 89,5%; tỷ lệ thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt thành phố Nam Định đạt khoảng 95%. Công tác thu gom, xử lý rác thải có nhiều chuyển biến tích cực, xã hội hóa trong công tác thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt được khuyến khích; trên địa bàn tỉnh có nhiều doanh nghiệp tham gia công tác thu gom xử lý rác thải và vận hành có hiệu quả.

Bên cạnh những thuận lợi, công tác quản lý, xử lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn Nam Định còn gặp một số khó khăn như: Phần lớn, các khu xử lý đã sắp lấp đầy hoặc quá tải; giá dịch vụ thu gom, vận chuyển rác thải còn thấp, chỉ đủ chi trả một phần cho công tác thu gom, vận chuyển; các quy định về quản lý chất thải rắn còn thiếu, chồng chéo, chưa phù hợp với tình hình thực tế; ý thức của một bộ phận người dân chưa cao, còn tình trạng xả rác thải ra môi trường. Chưa đồng bộ công tác thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt. Cán bộ làm công tác môi trường tại các xã, thị trấn chủ yếu là kiêm nhiệm, chưa có cán bộ chuyên trách và đào tạo bài bản về chuyên môn. Một số địa phương chưa có sự phân công rõ ràng về trách nhiệm quản lý đối với từng lĩnh vực cụ thể trong bảo vệ môi trường cho cán bộ công chức nên xử lý công việc còn lúng túng, vướng mắc.

Nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý chất thải rắn, đối với cấp chính quyền, địa phương, cần có sự chung tay, vào cuộc của toàn thể hệ thống chính trị cho công tác quản lý chất thải rắn; bố trí kinh phí để thực hiện duy trì và nhân rộng phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn trên địa bàn; chỉ đạo và điều hành của cấp ủy các cấp để triển khai đồng bộ, có hiệu quả mô hình phân loại rác thải tại nguồn; giao các tổ chức chính trị, đoàn thể đặc biệt là Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh chủ trì triển khai thực hiện phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn trong toàn tỉnh.

Đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về sự cần thiết của phân loại rác thải tại nguồn, hình thành thói quen phân loại rác và biến rác thải thành nguồn tài nguyên. Thường xuyên biểu dương khen thưởng những tập thể, cá nhân làm tốt. Tiếp tục tuyên truyền, vận động những hộ dân chưa mua thùng đựng rác bổ sung mua, bảo đảm 100% các tuyến đường được trang bị thùng đựng rác và 100% hộ dân phân loại rác thải tại nguồn.

Tỉnh phấn đấu đến năm 2030, đảm bảo 100% chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trên địa bàn được thu gom, xử lý đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường; đến năm 2050 đảm bảo 100% các loại chất thải rắn phát sinh đều được thu gom, tái sử dụng, tái chế và xử lý bằng những công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường.

Đông Hải
Xin chờ trong giây lát...

Phân loại chất thải sinh hoạt: Khó khăn từ thực tiễn

Phiên bản di động