Thu hút tư nhân đầu tư hạ tầng thoát nước: Vì sao khó và cần bắt đầu từ đâu?
Câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào để Việt Nam không tiếp tục tụt hậu trong đầu tư hạ tầng nước thải - một lĩnh vực gắn trực tiếp với tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn và cam kết giảm phát thải? Tại sao một hạ tầng thiết yếu lại “kém hấp dẫn” đến như vậy? Điều gì đang khiến các nhà đầu tư dù quan tâm nhưng vẫn “lắc đầu” trước các dự án xử lý nước thải đô thị? Việt Nam cần làm gì để biến lĩnh vực này thành một thị trường đầu tư xanh tiềm năng trong thập kỷ tới?
Bài viết dưới đây xin đề cập các nút thắt thể chế, tài chính và mô hình vận hành, đồng thời đề xuất các giải pháp khả thi nhằm thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực thoát nước.
![]() |
| Lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải của Việt Nam còn rất nhiều khó khăn. Bình quân lượng nước thải sinh hoạt đô thị được xử lý mới chỉ đạt 18% |
Nhu cầu đầu tư khổng lồ nhưng nguồn lực công có hạn
Phát biểu tại tọa đàm “Tham vấn các bên liên quan về khung pháp lý cho quản lý vận hành và đầu tư PPP trong lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải” được tổ chức ngày 4/12 vừa qua, ông Trần Hoài Anh, Phó cục trưởng Cục Kết cấu hạ tầng xây dựng (Bộ Xây dựng) cho biết: Tỷ lệ thu gom nước thải của phạm vi phục vụ hệ thống thoát nước đô thị toàn quốc đạt khoảng 70%. Bình quân lượng nước thải sinh hoạt đô thị được xử lý chỉ đạt 18% trên tổng lượng nước thải cần được thu gom xử lý. Đến nay, toàn quốc có 83 nhà máy xử lý nước thải tập trung tại các đô thị, với tổng công suất thiết kế khoảng 2,06 triệu m³/ngày, công suất thực tế khoảng 1,1 triệu m³/ngày.
Tuy nhiên, theo thống kê của ngành Xây dựng và các báo cáo môi trường quốc gia, mới chỉ khoảng 15 - 20% lượng nước thải đô thị được xử lý đạt chuẩn. Đáng chú ý, nhiều đô thị loại II trở xuống chưa có hệ thống thu gom - xử lý tập trung, chỉ gom chung vào hệ thống thoát nước mưa.
Hơn 60% nhà máy xử lý nước thải đô thị hiện hữu đang thiếu nguồn thu, hoạt động dưới 50 - 60% công suất. Các dự án xây dựng bằng vốn ODA đang thu hẹp dần khi các nhà tài trợ quốc tế chuyển ưu tiên sang lĩnh vực biến đổi khí hậu và năng lượng sạch.
Cũng tại tọa đàm nói trên, bà Sibylle Bachmann, Trưởng bộ phận Hợp tác, Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ (SECO) cho biết: Ước tính, để đạt mục tiêu tới năm 2030 xử lý từ 50% nước thải đô thị trở lên, Việt Nam cần đầu tư khoảng 8 - 12 tỷ USD, tức trung bình khoảng 20.000 - 25.000 tỷ đồng/năm. Đây là mức vượt xa khả năng ngân sách địa phương. Trong bối cảnh đó, việc huy động tư nhân thông qua hình thức đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) là con đường tất yếu, nhưng “cửa vào” vẫn còn rất hẹp.
Vì sao tư nhân chưa mặn mà đầu tư vào xử lý nước thải?
Việc đầu tư theo phương tức PPP đối với các dự án thoát nước đã được đề cập đến trong Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) 2020 (Luật PPP), được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 01/2024/QH15 ngày 18/01/2024, có hiệu lực từ 15/01/2024.
Luật số 01/2024/QH15, giúp hoàn thiện khung pháp lý, làm rõ thẩm quyền, và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc thực hiện các dự án PPP tại Việt Nam. Luật đã cập nhật, bổ sung nhiều nội dung quan trọng, trong đó tiếp tục quy định về quản lý dự án PPP (đầu tư, vận hành), bao gồm cả hợp đồng BOT, BT, BTO, BOO, BTL, BLT.
Mặc dù được liệt kê trong Luật PPP như một lĩnh vực đủ điều kiện xã hội hóa, nhưng trong thực tế, gần như không có dự án PPP nào trong xử lý nước thải đô thị được triển khai thành công. Nguyên nhân có thể đến từ nhiều góc độ.
Thứ nhất đó là thiếu mô hình tài chính khả thi. Tại các địa phương hiện nay vẫn đang thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải thông qua hóa đơn thu tiền nước sạch. Mức phí được tính bằng khoảng từ 10 - 25 % giá bán 1m³ nước sạch (chưa bao gồm VAT). Mục đích của khoản phí này nhằm bù đắp chi phí quản lý, vận hành hệ thống thoát nước và xử lý nước thải; Tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước cho hoạt động bảo vệ môi trường; Điều tiết hành vi xả thải gây ô nhiễm chứ chưa nhằm mục đích đầu tư.
Mặc dù hiện nay đã có chủ trương về việc chuyển từ tính phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sang tính giá xử lý nước thải theo nguyên tắc “tính đúng - tính đủ” được quy định bởi Nghị định 08/2022/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn, tuy nhiên để thực hiện được việc này cũng phải triển khai theo lộ trình, sau khi việc tính giá xử lý nước thải đủ để bù đắp chi phí quản lý, vận hành, duy tu hệ thống thoát nước mới đến bước thu đủ để dành cho cả đầu tư phát triển.
Như vậy, với cơ chế thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải hiện nay, và thực tế triển khai việc chuyển sang thu giá dịch vụ thoát nước, nhà đầu tư gần như không có dòng tiền nếu tham gia vào các dự án xử lý nước thải. Thực tế, nhiều thành phố chưa tách bạch phí thoát nước khỏi giá nước sạch, khiến khả năng điều chỉnh giá dịch vụ bị giới hạn. Cơ chế tính giá thoát nước theo hướng “tính đúng - tính đủ” vẫn chưa được triển khai đồng bộ.
Thứ hai, cơ chế thanh toán theo “đơn giá dịch vụ công ích” chưa phù hợp với PPP. Có thể nói, khác với điện, nước sinh hoạt, rác thải, thoát nước không có khách hàng trực tiếp. Nếu dùng PPP, Nhà nước phải “mua dịch vụ” từ nhà đầu tư thông qua hợp đồng. Tuy nhiên hiện chưa có khung đơn giá chuẩn cho dịch vụ đó. Cơ chế thanh toán định kỳ bằng ngân sách chưa đủ rõ, khiến nhà đầu tư khó vay vốn ngân hàng.
Thứ ba, khung pháp lý PPP còn “khoảng trống” đối với lĩnh vực thoát nước. Luật PPP 2020 chỉ liệt kê thoát nước - xử lý nước thải như một lĩnh vực đủ điều kiện, nhưng chưa có quy định vận hành chuyên sâu như: phân bổ rủi ro lưu lượng nước thải thu gom, cơ chế bảo lãnh doanh thu tối thiểu, tách bạch tài sản công - tài sản nhà đầu tư trong hệ thống thoát nước hỗn hợp. Điều này khiến các dự án PPP trong lĩnh vực nước thải gần như không thể cấu trúc theo chuẩn quốc tế.
Năm 2024, Luật PPP đã được cập nhật bổ sung nhiều điểm quan trọng, tiến bộ, tuy nhiên đầu tư theo phương thức PPP đối với lĩnh vực thoát nước - xử lý nước thải vẫn chưa có các hướng dẫn cụ thể, khiến cho nhà đầu tư rất khó để có thể tham gia và triển khai các dự án. Có đến 7 loại hợp đồng trong phương thức đầu tư PPP tại Việt Nam (BOT, BTO, BOO, O&M, BTL, BLT, Hợp đồng hỗn hợp), nhưng vì chưa có các hướng dẫn cụ thể, nên nhà đầu tư cũng không biết phải chọn loại nào mới phù hợp.
Thứ tư là rủi ro lưu lượng, cũng là mối lo ngại nhất của nhà đầu tư. Nhiều hệ thống thu gom chưa đồng bộ, nhà máy cử lý nước thải xây xong không có nước đầu vào là chuyện không hiếm. Nhà đầu tư không thể đánh đổi hàng ngàn tỷ đồng cho một hệ thống mà lưu lượng không có gì để đảm bảo.
Thứ năm là thiếu cơ chế “gối đầu” sau đầu tư, không có tỷ suất hoàn vốn thì không ai muốn tham gia. Một dự án PPP khả thi phải đảm bảo tỷ suất hoàn vốn tối thiểu. Nhưng trong nhiều dự án nước thải, dòng thu thiếu ổn định, không có bảo lãnh thanh toán, tỷ lệ vốn chủ sở hữu quá cao. Kết quả sẽ không có ngân hàng thương mại nào muốn rót vốn, và nhà đầu tư từ đó cũng không dám tham gia.
![]() |
| Khi các “điểm nghẽn” được tháo gỡ, lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải hoàn toàn có thể trở thành thị trường đầu tư “xanh” mới |
Một số đề xuất để thu hút tư nhân vào lĩnh vực thoát nước
Để thu hút tư nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực thoát nước - xử lý nước thải, Việt Nam cần tháo gỡ được các “điểm nghẽn” về cơ chế giá dịch vụ, chuẩn hóa mô hình PPP…
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, chúng ta cần xây dựng cơ chế giá dịch vụ thoát nước - xử lý nước thỏ theo nguyên tắc “tính đúng, tính đủ”. Tách riêng giá dịch vụ thoát nước khỏi giá nước sạch. Lộ trình 5- 7 năm để giá bao phủ tối thiểu 70 - 80% chi phí vận hành. Có thể bổ sung chính sách hỗ trợ hộ nghèo khi tính giá dịch vụ.
Bộ Xây dựng - Bộ Tài chính phối hợp ban hành đơn giá tối thiểu/tham chiếu cho xử lý nước thải đô thị cũng như phương pháp tính chi phí vòng đời dự án, làm cơ sở lập hợp đồng PPP.
Chuẩn hóa mô hình PPP cho lĩnh vực nước thải bằng cách ban hành các Thông tư hướng dẫn riêng như: Phân bổ rủi ro lưu lượng, vận hành, biến động chi phí, cơ chế chia sẻ doanh thu theo Luật PPP, quy định về tài sản công tích hợp trong mạng lưới thoát nước.
Bên cạnh đó, cần tăng cường bảo lãnh và cam kết của Nhà nước. Vì đặc thù ngành nước đòi hỏi bảo lãnh thanh toán từ ngân sách địa phương, cam kết tối thiểu về lưu lượng hoặc hỗ trợ hoàn thiện mạng lưới thu gom.
Phát triển thị trường vốn dài hạn cho hạ tầng ngành nước thông qua trái phiếu công trình nước thải, quỹ đầu tư hạ tầng xanh, huy động nguồn lực phát triển xanh từ các định chế tài chính quốc tế.
Có thể khẳng định khung pháp lý cho quản lý, vận hành và đầu tư PPP trong thoát nước - xử lý nước thải ở Việt Nam đã có nền tảng đủ mạnh, bao gồm Luật chuyên ngành (Luật Bảo vệ môi trường), Luật PPP và các nghị định hướng dẫn, cùng các nghị định chuyên ngành của Bộ Xây dựng. Tuy nhiên vẫn còn khoảng trống về cơ chế tài chính và cần thông tư hướng dẫn chi tiết về PPP đối với lĩnh vực thoát nước để tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế đầu tư, phân chia rủi ro và bảo trợ tài chính, từ đó huy động được nguồn lực tư nhân quy mô lớn.
Việt Nam cần một dự án mẫu để mở đường
Việt Nam đang thiếu một dự án PPP thành công trong xử lý nước thải để tạo niềm tin cho thị trường. Bộ Xây dựng và một số địa phương lớn như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng có thể chọn một đến hai dự án thí điểm với mô hình rõ ràng. Trong đó, xây dựng cơ chế chia sẻ rủi ro minh bạch, mời tư vấn quốc tế hỗ trợ cấu trúc tài chính.
Một dự án điển hình thành công sẽ giúp Việt Nam tạo tiền lệ pháp lý, xây dựng “khung chuẩn” cho hàng loạt dự án tiếp theo, thu hút các quỹ đầu tư hạ tầng quốc tế.
Có thể khẳng định, thu hút tư nhân là con đường cần thiết để phát triển lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải tại Việt Nam hiện nay, nhưng cần sự thay đổi mạnh từ Nhà nước.
Nếu tiếp tục duy trì cơ chế cũ “giá thấp - lãi ít - rủi ro cao”, các nhà đầu tư tư nhân sẽ đứng ngoài cuộc, mất đi một trụ cột để Việt Nam thể thực hiện cam kết về môi trường, đô thị xanh, và phát triển bền vững.
Để phá vỡ thế bế tắc kéo dài, Nhà nước cần có các cải cách chính sách về giá dịch vụ thoát nước - xử lý nước thải, chuẩn hóa mô hình PPP và cơ chế thanh toán, đảm bảo cam kết mạnh về rủi ro lưu lượng và thanh toán, thúc đẩy thị trường vốn cho hạ tầng nước.
Khi các “điểm nghẽn” được tháo gỡ, lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải hoàn toàn có thể trở thành thị trường đầu tư “xanh” mới, thu hút doanh nghiệp trong và ngoài nước, tạo đột phá cho hạ tầng đô thị Việt Nam trong giai đoạn tới.

