Kết quả khảo sát bằng bẫy ảnh lớn nhất Việt Nam: Tín hiệu phục hồi đa dạng sinh học và cảnh báo nguy cơ suy giảm
Khảo sát do WWF-Việt Nam và WWF-Hoa Kỳ thực hiện. Đây là hoạt động thuộc khuôn khổ Dự án Bảo tồn Đa dạng sinh học do Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ, phối hợp với các Ban quản lý rừng địa phương và Viện Nghiên cứu động vật hoang dã Leibniz thực hiện. Nghiên cứu nhằm theo dõi những thay đổi quan trọng trong quần thể các loài thú và chim sống dưới mặt đất, đồng thời đánh giá hiệu quả các nỗ lực bảo tồn đa dạng sinh học đang được triển khai.
Dự án đã tiến hành các hoạt đông nghiên cứu trong 4 năm tại 21 khu rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, thu thập dữ liệu từ 349.662 ngày đêm bẫy ảnh, ghi nhận hơn 120.000 lần phát hiện độc lập, hàng triệu ảnh và ít nhất 49 loài thú cùng 11 loài chim trĩ sinh sống trên mặt đất. Đây được đánh giá là cuộc khảo sát bẫy ảnh toàn diện nhất Việt Nam và thuộc nhóm quy mô lớn trong khu vực Đông Nam Á.
Công nghệ bẫy ảnh và vai trò của camera trap trong nghiên cứu đa dạng sinh học
Nghiên cứu ứng dụng Camera trapping (bẫy ảnh tự động) - là kỹ thuật sử dụng máy ảnh có cảm biến hồng ngoại kích hoạt khi động vật di chuyển qua vùng quét. Thiết bị hoạt động 24/7, không cần con người túc trực, giúp ghi lại hình ảnh động vật hoang dã trong điều kiện tự nhiên, giảm tác động lên hệ sinh thái, thu thập dữ liệu khách quan, liên tục.
![]() |
| Bẫy ảnh hoạt động 24/7 và là một công cụ quan trọng trong nghiên cứu đa dạng sinh học |
Bẫy ảnh được coi là một công cụ quan trọng hiện nay trong nghiên cứu đa dạng sinh học vì nó cho phép cơ quan quản lý, cơ quan nghiên cứu giám sát các loài quý hiếm, khó bắt gặp, xác định mật độ - phân bố - xác suất hiện diện (PAO), đánh giá hiệu quả của các hoạt động bảo tồn theo thời gian, xây dựng bản đồ điểm nóng đa dạng sinh học để ưu tiên bảo vệ.
Với quy mô gần 350.000 ngày bẫy ảnh, khảo sát dự án đã tạo nên bộ dữ liệu lớn và đáng tin cậy nhất từ trước đến nay tại Việt Nam.
Những phát hiện nổi bật: tín hiệu phục hồi nhưng cũng gióng lên cảnh báo
Số lượng loài phong phú và nhiều loài quý hiếm được ghi nhận
Khảo sát đã ghi nhận 49 loài thú kích thước trung bình và lớn, 11 loài chim trĩ, 9 loài đặc hữu hoặc gần đặc hữu Trường Sơn, 22 loài bị đe dọa toàn cầu.
Đáng chú ý nhất là hình ảnh xác nhận của các loài cực kỳ hiếm tại Việt Nam như: mang lớn (Muntiacus vuquangensis) ghi nhận tại 5 khu vực, gấu chó (Helarctos malayanus) ghi nhận tại 3 khu vực, gầy giông sọc (Viverra megaspila) ghi nhận tại 2 khu vực. Đây là những ghi nhận được xác nhận hiếm hoi trong vòng 20 năm qua.
![]() |
| Một số loài động vật hoang dã được phát hiện qua bẫy ảnh |
Cuộc nghiên cứu lần này còn cho thấy nột kết quả đáng mừng về loài Tê tê - loài bị săn bắt nhiều nhất lại ghi nhận xu hướng tăng. Đây là một kết quả đặc biệt quan trọng. Xác suất hiện diện của Tê tê (Manis spp.) tăng tại 14 khu vực, đặc biệt cao tại Vườn Quốc gia Cát Tiên. Điều này cho thấy các nỗ lực bảo vệ đang phát huy tác dụng ở một số vùng trọng điểm.
16/21 khu vực có mức độ phong phú loài tăng
So sánh giữa khảo sát nền và khảo sát cuối kỳ cho thấy: 16 khu vực có mức tăng đáng kể về độ giàu loài (tổng thể & loài chỉ thị), 09 khu vực tăng trên 10%, không có khu vực nào giảm đáng kể.
Kết quả nghiên cứu đã đem đến cho chúng ta một số điểm sáng thực sự đáng chú ý, đó là Rừng phòng hộ Đa Nhim đã tăng từ 27 - 33%, Vườn quốc gia Vũ Quang tăng từ 23 - 43%.
Tuy nhiên, sự biến mất của các loài thú lớn cho thấy dấu hiệu suy thoái hệ sinh thái.
Thật đáng buồn, bẫy ảnh đã không ghi nhận được các loài thú ăn thịt cỡ trung bình và lớn (như báo hoa mai, báo gấm), các loài ăn cỏ cỡ lớn (như sao la, bò rừng). Kết luận báo cáo cho thấy nhiều loài đã tuyệt chủng chức năng hoặc gần như biến mất khỏi các khu vực khảo sát, nguyên nhân chủ yếu từ nạn đặt bẫy kéo dài, suy thoái sinh cảnh.
Báo cáo khuyến nghị, Việt Nam nên lặp lại khảo sát bẫy ảnh định kỳ từ 3 - 5 năm/lần và giao các viện nghiên cứu quốc gia đảm nhiệm để đảm bảo độ chính xác và tính liên tục.
Tín hiệu phục hồi rõ rệt nhưng cần hành động khẩn cấp
Các dữ liệu từ khảo sát lớn nhất Việt Nam cho thấy hai mặt của bức tranh ĐDSH hiện nay, đó là có những tín hiệu tích cực nhưng vẫn có những cảnh báo nghiêm trọng cần hành động khẩn cấp.
![]() |
| Bò tót được phát hiện qua bẫy ảnh |
Độ giàu loài tăng ở đa số khu vực, nhiều loài quý hiếm được ghi nhận trở lại, nhiều loài chỉ thị cho thấy xu hướng phục hồi. Tuy vậy việc vắng bóng hoàn toàn các loài thú lớn là dấu hiệu suy thoái hệ sinh thái không thể chối cãi được. Tồi tệ hơn, nạn đặt bẫy vẫn phổ biến ở hầu hết các khu vực. Các loài hiếm vẫn đứng trước nguy cơ suy giảm nếu không hành động mạnh mẽ.
Khuyến nghị từ báo cáo nhấn mạnh cần tăng cường thực thi pháp luật, xử lý triệt để nạn đặt bẫy và xem xét chương trình tái thả các loài hoang dã để phục hồi hệ sinh thái rừng Việt Nam.
Từ những kết quả trên có thể khẳng định, nghiên cứu có ý nghĩa lớn đối với công tác bảo tồn tại Việt Nam. Các kết quả khảo sát đã cung cấp dữ liệu nền vững chắc để Việt Nam cải thiện chỉ số giám sát ĐDSH quốc gia, thực hiện cam kết theo Công ước Đa dạng sinh học (CBD), nâng cao hiệu quả bảo tồn tại các vườn quốc gia và khu bảo tồn.
Rừng Việt Nam vẫn là nhà của nhiều loài động vật có giá trị toàn cầu. Những tín hiệu phục hồi đáng khích lệ cho thấy thiên nhiên có thể tái sinh khi có cơ hội. Tuy nhiên, sự phục hồi bền vững chỉ có thể đạt được nếu có sự hợp tác chặt chẽ và lâu dài giữa chính quyền các cấp, cộng đồng và các đối tác bảo tồn nhằm chấm dứt các mối đe doạ đối với các loài hoang dã, đặc biệt là nạn đặt bẫy tràn lan.


