Phát triển hài hòa giữa kinh tế và bảo tồn biển
Hiện trạng biến động hệ sinh thái thảm cỏ biển tại Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm và đề xuất giải pháp phục hồi |
Việt Nam là quốc gia có lợi thế và tiềm năng to lớn để phát triển bền vững kinh tế biển. Tính đa dạng về cảnh quan tự nhiên và nguồn lợi thủy sản là thế mạnh của Việt Nam trong phát triển ngành kinh tế biển nói chung và kinh tế thủy sản nói riêng, đặc biệt là thiết lập các khu bảo tồn biển (KBTB).
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu, phát huy các KBTB đã đạt nhiều kết quả tích cực. Nhiều vùng biển đã được hoạch định thành các vùng bảo vệ nguồn lợi hải sản, như: Mỹ Miều (Quảng Ninh), Nha Phu (Khánh Hòa), Mũi Né (Bình Thuận), bãi bồi Ngọc Hiển (Cà Mau),... Sau gần 10 năm triển khai thực hiện Quyết định số 742/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/5/2010, Việt Nam đã thiết lập và đang dần hoàn thiện mạng lưới 16 KBTB nhằm bảo vệ các hệ sinh thái biển và nguồn lợi thủy sản.
Nhưng theo đánh giá của các chuyên gia, nhà khoa học, các KBTB ở nước ta vẫn chưa hoạt động hiệu quả. Nhận thức về vai trò, vị trí biển và kinh tế biển của các cấp, các ngành, các địa phương ven biển và người dân chưa đầy đủ, vẫn còn có những khái niệm khác nhau về kinh tế biển, chưa coi trọng liên kết giữa các mảng không gian kinh tế biển và các vùng kinh tế biển, ven biển.
Biển Việt Nam nằm trong vùng có tính đa dạng sinh học cao, với hơn 11.000 loài sinh vật được phát hiện. |
Ông Nguyễn Quang Hùng - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho biết, năm 2018, tổng sản lượng thủy sản nước ta đạt khoảng 7,74 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt 9 tỉ USD, góp phần quan trọng phát triển kinh tế đất nước, cải thiện sinh kế, ổn định đời sống người dân các tỉnh ven biển.
Tuy nhiên, ngành thủy sản Việt Nam cũng đang đối mặt với rất nhiều khó khăn từ sức ép kinh tế như phát triển du lịch biển, tình trạng khai thác thủy sản bất hợp pháp vẫn còn diễn ra, việc sử dụng chất nổ, xung điện, hóa chất cấm, chất độc, ngư cụ cấm để khai thác thủy sản, tình trạng ô nhiễm môi trường biển… Công tác bảo tồn biển gặp khó khăn nên đã trực tiếp hoặc gián tiếp làm suy giảm nhanh nguồn lợi thủy sản tự nhiên và suy thoái các hệ sinh thái biển.
Ông Jacob Brunner - Đại diện Tổ chức IUCN cho rằng tại Việt Nam, khu vực bảo vệ bảo tồn biển nghiêm ngặt là rất nhỏ, khoảng dưới 1% diện tích, trong khi đó theo tiêu chuẩn quốc tế là 30%. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến việc bảo tồn các loài sinh vật. Trong quá trình nghiên cứu, IUCN đã phát hiện một trong những yếu tố làm cản trở sự quản lý hiệu quả tài nguyên sinh vật biển không phải đều bắt nguồn từ sự thiếu thốn nguồn vốn hay cơ sở vật chất mà là do sự không đồng ý của cộng đồng dân cư. Có những cộng đồng người dân dù hiểu biết về bảo tồn biển nhưng vẫn không đồng ý tham gia khu bảo vệ nghiêm ngặt này. Nguyên nhân là do một số ngư dân đã mang tàu thuyền đến đánh bắt bất hợp pháp và chính quyền cũng chưa ráo riết ngăn chặn việc đánh bắt trái phép này.
Để khai thác hiệu quả các cơ hội mà biển đem lại, cũng như giảm những thách thức và nguy cơ đối với tài nguyên và môi trường biển ở nước ta, Hội nghị Trung ương 8 (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược là: Đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hóa sinh thái biển; chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng…
Theo PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, nhìn từ các điển hình Cù Lam Chàm, Hòn Mun, Vườn quốc gia Núi Chúa cho thấy, cần nỗ lực cải thiện sinh kế cho cộng đồng dân cư sống trong và lân cận KBTB để họ tham gia chủ động hơn vào việc quản lý KBTB, ủng hộ ban quản lý trong thực hiện kế hoạch quản lý, góp phần giảm sức ép khai thác tài nguyên, nguồn lợi thủy sản.
Còn PGS.TS Võ Sĩ Tuấn - nguyên Viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang thì cho rằng phải có sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và bảo tồn biển, kiểm soát tình trạng khai thác nguồn lợi quá mức, đồng thời phải tính đến sức tải của các hệ sinh thái du lịch.
Nhằm đạt được những kết quả tốt trong thiết lập, quản lý hệ thống KBTB thời gian tới, Bộ NN&PTNT yêu cầu các đơn vị liên quan tiếp tục triển khai thực hiện Luật Thủy sản 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, đặc biệt là các nội dung liên quan đến quản lý KBTB; ưu tiên bố trí nguồn lực; bố trí lực lượng kiểm tra tại các KBTB để thực hiện tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm; chỉ đạo các đơn vị liên quan phối hợp chặt chẽ với Ban quản lý KBTB tăng cường tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm tại các KBTB; xử lý nghiêm các hành vi sử dụng xung điện, chất nổ, hóa chất cấm, chất độc, nghề, ngư cụ cấm sử dụng khai thác hải sản...
Theo tính toán của các nhà khoa học, các KBTB có thể làm mật độ sinh vật biển tăng gấp đôi, sinh khối tăng 3 lần và kích thước của sinh vật và đa dạng sinh học tăng lên 20% - 30% so với vùng không nằm trong khu bảo tồn. Đây là nguồn tiềm năng biển vô cùng lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nếu chúng ta biết quy hoạch, khai thác, phát triển các KBTB một cách khoa học. |