Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh - Nhà lãnh đạo kiên định và sáng tạo của cách mạng Việt Nam
Người chiến sĩ cộng sản kiên cường vì độc lập, thống nhất của Tổ quốc, tự do hạnh phúc của Nhân dân
Đồng chí Nguyễn Văn Linh tên thật là Nguyễn Văn Cúc, bí danh Mười Cúc, sinh ngày 01/7/1915, trong một gia đình công chức nghèo yêu nước tại thôn Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Mỹ Văn (nay là huyện Yên Mỹ), tỉnh Hưng Yên. Sinh ra trong bối cảnh đất nước lầm than, thấu hiểu cuộc sống nô lệ, được giác ngộ cách mạng, lại được tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc dẫn đường. Đồng chí Nguyễn Văn Linh sớm tham gia cách mạng từ lúc mới 14 tuổi.
Năm 1929, Đồng chí tham gia phong trào học sinh đoàn cảu Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1930, đồng chí Nguyễn Văn Linh cùng hai người bạn học nhận nhiệm vụ rải truyền đơn yêu nước và bị địch bắt, đưa ra xét xử, kết án chung thân, đày ra Côn Đảo.
Năm 1936, Đồng chí được trả tự do, trở về đất liền, bắt liên lạc với tổ chức Đảng, được kết nạp vào Đảng và được Đảng phân công tham gia phong trào công nhân ở Hải Phòng, Hà Nội; vượt qua mọi gian khó, thử thách, nguy hiểm đồng chí Nguyễn Văn Linh đã truyền vào phong trào công nhân Hải Phòng một luồng sinh khí mới, xây dựng nhiều cơ sở, nhiều chi bộ và Thành uỷ lâm thời Hải Phòng được thành lập. Phong trào cách mạng ở Hải Phòng được khôi phục.
Năm 1939 đồng chí Nguyễn Văn Linh được Đảng điều động vào công tác miền Nam, được cử phụ trách Phó Bí thư Thành uỷ Sài Gòn – Chợ Lớn, tăng cường chỉ đạo cuộc đấu tranh chống các thủ đoạn lừa bịp giả hiệu của Đảng lập hiến và bọn tờ rốt kít. Vào thời kỳ này, Đồng chí thâm nhập vào thực tiễn cách mạng miền Nam, củng cố tổ chức, đồng thời thực hiện chỉ đạo chiến lược của Đảng đề ta từ Hội nghị Trung ương 6 (tháng 11/1939), từ đó Đồng chí hiểu sâu sắc tinh thần cách mạng của nhân dân Sài Gòn – Gia Định. Thời gian này, Xứ uỷ Trung Kỳ bị đổ vỡ do sự đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp, đồng chí Nguyễn Văn Linh được Đảng cử ra miền Trung tham gia khôi phục Xứ uỷ. Khi đang hoạt động ở Vinh (Nghệ An) Đồng chí bị định bắt và đưa về Sài Gòn xét xử 5 năm tù, đày ra Công Đảo lần 2.
Hơn 10 năm bị tù đày tại “địa ngục trần gian” Côn Đảo, kẻ thù dùng mọi hình thức cực hình, tra tấn dã man nhưng đồng chí Nguyễn Văn Linh luôn giữ vững khí tiết cách mạng, kiên cường, bất khuất, cùng với các đồng chí trong Chi bộ đảng nhà tù tổ chức các lớp học chính trị, văn hoá, ngoại ngữ, biến nhà tù thực dân, đế quốc thành trường học cách mạng, tôi luyện bản lĩnh của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi.
Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, nhà tù Côn Đảo được giải phóng, đồng chí Nguyễn Văn Linh trở về hoạt động cách mạng ở Nam Bộ và tham gia Xứ uỷ Nam Bộ. Đồng chí là một trong những người đề xuất thực hiện hợp nhất hai tổ chức Việt Minh, gồm Bộ Việt Minh Sài Gòn và Uỷ ban Việt Minh Chợ lớn, thành lập Thành uỷ lâm thời thành phố Sài Gòn – Gia Định để thống nhất lãnh đạo phong trào cách mạng, tiến hành cuộc đấu tranh tẩy chay Chính phủ “Nam Kỳ tự trị” của thực dân Pháp, đấu tranh đòi hoà bình, dân chủ,…kết quả sau 5 tháng tồn tại Chính phủ “Nam Kỳ tự trị” bị tan rã.
![]() |
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh - nhà lãnh đạo kiên định và sáng tạo của cách mạng Việt Nam (ảnh tư liệu) |
Tháng 4 năm 1947, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Bí thư Thành uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn, đến giữa năm 1948 thì về Xứ uỷ Nam Bộ chỉ đạo củng cố tổ chức, xây dựng tổ chức hệ thống đảng, lực lượng vũ trang, tổ chức đoàn thể quần chúng đến tận cơ sở. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Văn Linh, phong trào đấu tranh và đấu tranh chính trị sôi nổi, rộng khắp, được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia như phong trào đấu tranh của công nhân, trí thức, sinh viên, học sinh ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh, chống thực dân Pháp, chống Chính phủ bù nhìn Bảo Đại, chống can thiệp của Mỹ.
Để đối phó với âm mưu mới của địch, Xứ uỷ Nam Bộ quyết định thành lập Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn (8/1950), đồng chí Nguyễn Văn Linh được Đảng phân công giữ trọng trách Bí thư Đặc khu uỷ Sài Gòn – Chợ Lớn (1950 – 1953). Trên cương vị mới, Đồng chí chỉ đạo củng cố lực lượng, khôi phục phong trào cách mạng, khắc phục khuyết điểm, đặc biệt mở các lớp huấn luyện, bồi dưỡng cho cán bộ, đẩy mạnh công tác dân vận, địch vận, quan tâm đời sống của Nhân dânm đồng thời xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, bán vũ trang, du kích,…nhờ đó quân và nhân dân Sài Gòn – Chợ lớn đã vượt qua khó khăn, gian khổ, bảo toàn lực lượng, tổ chức một số trận đánh hiệu quả, góp phần đánh bại thực dân Pháp và can thiệt của Mỹ, làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cẩu”.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng chí Nguyễn Văn Linh được Trung ương tin tưởng, điều động từ Việt Bắc trở lại với đồng bào Nam Bộ, tham gia lãnh đạo cách mạng miền Nam với cuộc chiến đấu mới, nhiệm vụ mới vô cùng khó khăn, phức tạp (là Bí thư Khu uỷ Sài Gòn – Chợ Lớn; Bí thư Xứ uỷ; Bí thư Khu uỷ Sài Gòn – Gia Định; Bí thư Thành uỷ Sài Gòn – Gia Định, Bí thư Trung ương Cục miền Nam,…), trong suốt cuộc kháng chiến ác liệt, gian khổ, đồng chí Nguyễn Văn Linh trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo Đảng bộ, đồng bào, chiến sĩ miền Nam vượt qua khó khăn, bám sát địa bàn, vận động quần chúng, xây dựng lực lượng, tổ chức và huấn luyện cán bộ, đảng viên về bảo đảm hoạt động bí mật, bảo vệ lực lượng ở địa bàn đô thị. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bó thư Khu uỷ Nguyễn Văn Linh, các phong trào đấu tranh diễn ra sôi nổi, rộng khắp cả Thành phố, thu hút đông đảo các tầng lớp nông dân, công nhân, trí thức, học sinh, sinh viên, tiểu thương, văn nghệ sĩ,…tham gia đấu tranh và tạo thành cao trào sôi nổi, rộng khắp, như phong trào bảo vệ hoà bình, phong trào cứu tế nạn nhân, bảo vệ sinh mạng và tài sản dân chúng; phong trào đòi hội nghị hiệp thương, đòi Mỹ - Diệm thi hành Hiệp định Giơnevơ,…
Đầu năm 1957, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ được Trung ương Đảng điều động ra miền Bắc, đồng chí Nguyễn Văn Linh được Trung ương Đảng cử làm Quyền Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ. Đây là thời kỳ hết sức khó khăn, tổn thất nặng nề. Với cương vị, nhiệm vụ mới đồng chí Nguyễn Văn Linh đã thể hiện là người lãnh đạo bản lĩnh, sáng suốt và bám sát thực tiễn, tiếp thu, vận dụng linh hoạt đưa Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng đi vào thực tiễn của tình hình Nam Bộ, trực tiếp chỉ đạo các hoạt động vũ trang, công tác nông thôn và đô thị. Ngày 17/01/1960, phong trào Đồng khởi bùng lên ở Bến Tre, hình thành vùng giải phóng liên hoàn từ xã này sang xã khác và thu được nhiều thắng lợi.
Thường vụ Xứ uỷ và đồng chí Nguyễn Văn Linh tổ chức tiếp một trận đánh vũ trang tại miền Đông Nam Bộ, Chiến thắng Tua Hai là đòn bất ngờ, làm rúng động bọn cầm đầu Mỹ - Nguỵ, bồi thêm khí thế vùng lên ở miền Đông Nam Bộ, miền Tây Nam Bộ, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn mới. Tiến hành Đồng khởi đợt 2, diễn ra trên địa bàn rộng hơn, đẩy mạnh đấu tranh chính trị kết hợp với hoạt động vũ trang, lan toả đến các địa bàn gần Sài Gòn, tạo cơ sở mở rộng tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân yêu nước. Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, tập hợp các tầng lớp nhân dân yêu nước ở miền Nam Việt Nam, đồng chí Nguyễn Văn Linh tham gia Uỷ ban Trung ương lâm thời.
Từ chiến thắng của phong trào Đồng Khởi, cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ, Mỹ chuyển sang thực hiện “Chiến tranh cục bộ”. Để đối phó kịp thời âm mưu của địch, Trung ương Đảng quyết định giải thể Xứ uỷ Nam Bộ thành lập Trung ương Cục miền Nam, chỉ định đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư.
Để tăng cường sự chỉ đạp của Trung ướng với cách mạng miền Nam, cuối ănm 1946 Trung ương cử Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Uỷ viên Bộ Chính trị và một số đồng chí khác vào miền Nam. Tháng 4/1965 Bí thư Trung ương Cục miền Nam Nguyễn Văn Linh cùng với đồng chí Nguyễn Chí Thanh chủ trì Hội nghị các bộ các khu uỷ để quyết định các phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa khi Mỹ đưa quân vào miền Nam, với chủ trương lớn và quan trọng, đồng chí Nguyễn Văn Linh được tăng cường kiêm Bí thư Khu uỷ để trực tiếp lãnh đạo.
Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Văn Linh, phong trào đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang ngày càng phát triển; Quân giải phóng miền Nam đã xây dựng, tổ chức lực lượng chủ động tiến công quân Mỹ ngay từ đầu, tiến công thẳng vào trung tâm đầu não, hang ổ của địch như: Đánh Toà đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu nguỵ, Tổng nha Cảnh sát,…nổi bật trong đó là thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân năm 1968 mà đồng chí Nguyễn Văn Linh trực tiếp tham gia lãnh đạo, góp phần quan trọng đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ.
Năm 1972, trên cương vị Bí thư Thành uỷ Sài Gòn – Gia Định, đồng chí Nguyễn Văn Linh lãnh đạo Đảng bộ Thành phố tiến hành cuộc tổng tiến công, tập trung xây dựng củng cố lực lượng, đẩy mạnh ba mũi giáp công chính trị, quân sự và binh vận, sáng tạp cách đánh mưu trí, táo bạo và đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, khôi phục thế và lực cách mạng ở vùng nông thông, thành thị,…để vững vước vào giai đoạn mới sau Hiệp định Paris, tạo thời cơ tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng.
Là người bám trị kiên cường ở miền Nam, trong thời kỳ gay go của cuộc chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, đồng chí Nguyễn Văn Linh thể hiện năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đúng đắn, sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975).
Nhà lãnh đạo kiên định và sáng tạo của cách mạng Việt Nam
Sau ngày miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước, đồng chí Nguyễn Văn Linh được Bộ Chính trị cử làm Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố có vị trí rất quan trọng về chính trị, kinh tế của khu vực đồng bằng sông Cửu Long và của cả nước, giàu về tiềm năng và truyền thống cách mạng; đồng thời cũng là nơi chịu ảnh hưởng của những tàn dư, hậu quả nặng nề của chế độ cũ.
Với cương vị là Bí thư Thành uỷ, Đồng chí đã cùng với tập thể lãnh đoạ Thành phố tăng cường ổn định tình hình kinh tế - xã hội, coi trọng việc đi khảo sát, nghiên cứu các cơ sở sản xuất công, nông nghiệp; xuống tận phường, xã để nắm tình hình lao động sản xuất, đời sống của Nhân dân; từ đó chỉ đạo Thành phố tập trung vào đẩy mạnh phong trào xoá nạn mù chữ, bổ túc văn hoá, đưa ngành giáo dục Thành phố đi vào quy chế giáo dục mới. Cùng với phòng trào giáo dục, phong trào văn nghệ quần chúng được đẩy mạnh theo hướng phục vụ nhiệm vụ chính trị, phát huy truyền thống văn hoá dân tộc.
Tháng 4/1977, đồng chí Nguyễn Văn Linh được Trung ương điều sang làm Trưởng ban Cải tạo xã hội chủa nghĩa Trung ương, đây là công việc Đồng chí rất trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi giải pháp đối với Thành phố. Cuối năm 1977, Đồng chí được điều sang làm Trưởng ban Dân vận – Mặt trận Trung ương; trên cương vị Trưởng ban, Đồng chí có những đóng góp quan trọng về phát triển tư duy lý luận của Đảng đối với công tác dân vận, thể hiện trong chủ trương, đường lối, Nghị quyết của Đảng mà Đồng chí trực tiếp tham mưu.
Tại Đại hội lần thứ VI của Tổng Công đoàn Việt Nam năm 1978, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam; Đồng chí là người khởi xướng sự nghiệp đổi mới Công đoàn và cho rằng Công đoàn là tổ chức rộng lớn của công nhân lao động, cần đối mới tổ chức và hoạt động thực sự “trường học kinh tế, trường học quản lý và trường học xã hội chủ nghĩa”, góp phần xây dựng giai cấp công nhân nước ta không ngừng lớn mạnh, đưa nước ta dần thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
Cuối năm 1980, Đồng chí được phụ trách theo dõi thực hiện Nghị quyết của Đảng và Chính phủ tại khu vực miền Nam.
Tháng 12 năm 1981, đồng chí Nguyễn Văn Linh được Bộ Chính trị phân công trở lại làm Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng chí luôn trăn trở, tìm tòi các giải pháp phù hợp với điều kiện của Thành phố quen với nền kinh tế thị trường, cùngc Đảng bộ lãnh đoạ thực hiện hững chủ trương, chính sách mới của Đảng; đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ đổi mới sản xuất kinh doanh, ổn định kinh tế - xã hội và đời sống của Nhân dân.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh luôn khuyến khích tinh thần tự chủ, năng động của các ngành, đơn vị kinh tế, coi trọng hạch toán kinh tếm hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh và lợi ích của người lao động, Đồng chí cũng cổ vũ các đồng chí của mình mạnh dạn tìm cách làm khác, vượt qua cơ chế, cách làm cũ.
Theo Đồng chí, muốn sản xuất mở rộng thì các doanh nghiệp phải được giao quyền tự chủ, bỏ cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp, Đồng chí quyết định xây dựng mô hình thí điểm xí nghiệp dệt Thành Công, đề nghị mở rộng cơ chế tự chủ cho nhiều xí nghiệp, loại hình sở hữu khác, chấp nhận thành lập “Câu lạc bộ giám đốc”. Sau một thời gian ngắn, nền kinh tế của Thành phố có bước chuyển biến lơn, đột phá, có hàng nghìn cơ sở sản xuất nhỏ, sản xuất gia đình được khôi phục, hoạt động hiệu quả và mô hình công ty hợp danh mới được thử nghiệm.
Những tìm tòi, thử nghiệm mô hình mới của Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh khác trên cả nước đã góp phần quan trọng để hình thành quan điểm đổi mới của Đảng ta. Sáng kiến và cách làm của đồng chí Nguyễn Văn Linh và Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã được Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương lắng nghe, ủng hộ đưa vào nghiên cứu lý luận, thực tiễn chung của Đảng để đi đến những quyết sách lớn, mở ta công cuộc đổi mới, có ý nghĩa lịch sử cho cách mạng Việt Nam.
Đồng chí coi trọng công tác tổng kết lý luận và thực tiễn, khởi xướng và kiên trì thực hiện đổi mới có nguyên tắc, đổi mới luôn luôn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững và tăng cường dự lãnh đạo của Đảng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, thực hiện nghiêm túc phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, là một trong bốn bài học mà Đại hội lần thứ VI của Đảng rút ra “lấy dân làm gốc”.
![]() |
Đồng chí Nguyễn Văn Linh tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) |
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), đã quyết định đường lối đổi mới, mở ra kỷ nguyên mới về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư duy mới, quan điểm cơ chế và chính sách mới; đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư.
Trên cương vị Tổng Bí thư, Đồng chí đã cùng với tập thể Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng vững vàng, chủ động, sáng tạo lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, vượt qua mọi khó khăn, thách thức từ trong nước và trên thế giới; kiên định đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thận trọng với bước đi, cách làm để phù hợp với điều kiện của Việt Nam; tập trung đổi mới kinh tế; từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, kiên quyết không chấp nhận đa nguyên, đa đảng, coi trọng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Triển khai thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đồng chí luôn coi trọng những quan điểm cơ bản có ý nghĩa sâu sắc, mang tầm chiến lược, các bài viết của đồng chí Nguyễn Văn Linh đăng trên báo Nhân dân “những việc cần làm ngay” với bút danh N.V.L, tạo ra luồng sinh khí mới trong xã hội, dân chủ, công khai, nói thẳng, nói thật, lời nói đi đôi với việc làm, góp phần khắc phục tình trạng quan liêu, sự trì trệ, vô cảm trong lãnh đạo, quản lý các cấp, lĩnh vực, tạo nên phương thức công tác mới làm trong sạch bộ máy cơ quan Đảng, Nhà nước.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh chú trọng “đổi mới tư duy và phong cách”, Đồng chí nhấn mạnh “nói đến tư duy là nói đến trình độ nắm bắt các quy luật khách quan, nói đến việc suy nghĩ theo đòi hỏi của các quy luật đó và vận dụng chúng phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước, nói đến quán trình sáng tạo đề ra các ý kiến mới, nói đến việc tìm tòi các biện pháp có hiệu quả cho hành động”.
Thể chế hoá quan điểm, chú trương của Đảng về con đường đổi mới Đảng, Nhà nước ban hành ngay: Quyết định 217-HĐBT về trao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp quốc doanh (tháng 11/1987); Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội khoá VIII thông qua tháng 12/1987, đặc biệt Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 05/4/1988 của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp, giao quyền sử dụng đất lâu dài cho các hộ nông dân với quy mô hợp lý và ổn định, theo đó vụ mùa năm năm 1988 được mùa lớn; cuối năm 1988 thực hiện tiền tệ hoá tiền lương, bỏ chế độ tem phiếu; dần chuyển đổi nền kinh tế trao đổi hiện vật sang kinh tế hàng hoá, điều tiết theo thị trường với sự hướng dẫn, quản lý của Nhà nước, đời sống của Nhân dân ngày càng được nâng lên.
Trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Linh cùng với tập thể lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra những nguyên tắc chỉ đạo đổi mới như Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI (1989), đổi mới không đi chệch hướng, không tách rời mục tiêu cây dựng xã hội chủ nghĩa, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lực chọn, kiên định và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, nền tảng tư tưởng của Đảng chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của Nhân dân, dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, pháp luật, ý thức trách nhiệm của công dân; dân chủ phải có lãnh đạo và lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Đồng chí rất quan tâm, chú trọng đề cao tư duy mới trong quan hệ đối ngoại, cụ thể Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 20/5/1988 về đổi mới tư duy, điều chỉnh đường lối đối ngoại, tậm trung giữ vững môi trường hoà bình để xây dựng và phát triển kinh tế.
Nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Trưởng ban soạn thảo cương lĩnh trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng; chỉ đạp sửa đổi Hiến pháp năm 1980, thông quan Hiến pháp 1992 để phù hợp với thời kỳ đổi mới của đất nước; Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991) ra đời trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, chủ nghĩa xác hội ở Đông Âu tan rã, những thể hiện bản lĩnh vững vàng, iên định của Đảng và Nhân dân ta; Cương lĩnh khẳng định chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Sau khi rời vị trí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương khoá VI, đồng chí Nguyễn Văn Linh trên cương vị Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, tiếp tục đóng góp vào sự lãnh đạo của Đảng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; chăm lo đời sống tinh thần, vật chất của Nhân dân, xoá đói giảm nghèo; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập chủ quyền của Tổ quốc; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, mở rộng quan hệ đối ngoại, đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh đồng chí Nguyễn Văn Linh vào dịp toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và các nghị quyết của Trung ương; tiếp tục phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo của đồng chí Nguyễn Văn Linh, công cuộc đổi mới của đất nước qua gần 40 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử./. |