Quốc hội thảo luận Đề án phát triển vùng dân tộc thiểu số

01/11/2019 13:13 Tăng trưởng xanh
Sáng 1/11, tại Hội trường Diên Hồng, Quốc hội đã dành trọn một buổi để bàn thảo về Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn.
Toàn cảnh Quốc hội thảo luận KT-XH và ngân sách nhà nước Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi Bộ trưởng GTVT hứa tăng tốc giải ngân vốn trong 2 tháng cuối năm
quoc hoi thao luan de an phat trien vung dan toc thieu so
Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng điều hành phiên họp.

Phát biểu thảo luận, các đại biểu: Nguyễn Phước Lộc (TPHCM); Nguyễn Bắc Việt (Ninh Thuận); Cao Thị Giang (Quảng Bình); Đàm Thị Mỹ Hương (Ninh Thuận); Y Khút Niê (Đắk Lắk); Hoàng Thị Thu Trang (Nghệ An); Đinh Thị Bình (Phú Thọ); Phương Thị Thanh (Bắc Kạn);... nhấn mạnh ý nghĩa chính trị, tầm quan trọng và tính cấp thiết về việc xây dựng và triển khai Đề án tổng thể phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn....

Theo các đại biểu, việc thông qua đề án nhằm thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, thể chế hóa quy định tại Điều 5 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.

Cho rằng nội dung nêu trong dự thảo đề án được chuẩn bị công phu, có tính khoa học và thực tiễn cao, cơ bản nhất trí với các mục tiêu, giải pháp nêu trong dự thảo; các đại biểu cũng phân tích làm rõ các nguyên nhân của các tồn tại, yếu kém, qua đó góp ý, đề xuất một số nội dung cụ thể để hoàn thiện đề án, như: Phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải gắn với việc bảo đảm quyền tự quyết của các dân tộc theo chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống, nhất là bảo tồn chữ viết, tiếng nói, bảo đảm không gian sống (đất ở, đất sản xuất), nghiên cứu lịch sử phát triển... của các dân tộc thiểu số; bảo đảm cho đồng bào sinh hoạt văn hóa, tôn giáo theo quy định của pháp luật; đào tạo, bố trí cán bộ là người dân tộc thiểu số; bảo đảm quyền bình đẳng giới của phụ nữ và trẻ em gái vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi;...

Các đại biểu cũng đề nghị cấp có thẩm quyền triển khai các giải pháp: Đồng bộ hóa, tập trung các chính sách, nguồn lực phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số vào một đầu mối để đầu tư phát triển kinh tế vùng "lõi nghèo"; kết hợp hiệu quả giữa đầu tư ngân sách gắn với việc huy động các nguồn lực xã hội để thực hiện đề án, tránh tình trạng "chính sách như một loại quả đẹp nhưng đồng bào không ăn được"; hợp lý hóa các chính sách hỗ trợ; đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, điện, thông tin, trường học, trạm y tế, nhà sinh hoạt cộng đồng) và nguồn vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội, phát triển các mô hình sản xuất gắn với lợi thế, đặc thù của địa phương, hỗ trợ kết nối thị trường... để đồng bào phát huy tinh thần tự lực, tự cường, chủ động sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, vươn lên thoát nghèo và làm giầu chính đáng trên mảnh đất quê hương;...

Cuối phiên thảo luận, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến đã phát biểu, giải trình làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm như: Căn cứ xác định chỉ tiêu thu nhập, chỉ tiêu đào tạo nghề; các trọng tâm, trọng điểm cần ưu tiên; tiêu chí phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi; kinh phí, tổ chức thực hiện đề án;...

quoc hoi thao luan de an phat trien vung dan toc thieu so
Quốc hội thảo luận Đề án tổng thể phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn. Ảnh VGP

Đời sống của đồng bào được nâng lên rõ rệt, nhưng vẫn là nơi khó khăn nhất

Theo tờ trình của Chính phủ, nước ta có 53 dân tộc thiểu số (DTTS) với hơn 14 triệu người, gần 3 triệu hộ, cư trú thành cộng đồng ở 51 tỉnh, thành phố, 548 huyện, 5266 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 382 xã biên giới, chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Duyên hải miền Trung, chiếm 3/4 diện tích cả nước.

Đây là vùng trọng yếu về quốc phòng, an ninh, đối ngoại; nơi có nhiều tài nguyên khoáng sản, có hệ sinh thái động, thực vật phong phú đa dạng; có trên 14 triệu ha rừng, là đầu nguồn nước cung cấp cho khu vực đồng bằng.

Trong những năm qua, nhờ có sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, đời sống của đồng bào các dân tộc đã được nâng lên rõ rệt, nhưng hiện nay vẫn là nơi khó khăn nhất, chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất, KT-XH phát triển chậm nhất, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thấp nhất, tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.

Từ tình hình trên, rất cần thiết phải xây dựng “Đề án tổng thể phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn” nhằm thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước: các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển.

Thu hẹp dần khoảng cách với vùng phát triển

Chính phủ đặt mục tiêu khai thác tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội; giảm nghèo nhanh, bền vững; thu hẹp dần khoảng cách về mức sống so với vùng phát triển; giảm dần địa bàn đặc biệt khó khăn; quy hoạch, sắp xếp ổn định dân cư, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH đồng bộ, liên vùng, kết nối với các vùng phát triển; cải thiện rõ rệt đời sống của nhân dân; phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa; nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động là người dân tộc thiểu số; xóa bỏ phong tục tập quán lạc hậu đi đôi với giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và an ninh biên giới quốc gia; củng cố tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước.

Cụ thể, đến năm 2025: Thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số tăng gấp 2,0 lần so với năm 2020; tỷ lệ hộ nghèo hàng năm giảm từ 3% đến 5%;

100% xã có đường ô tô đến trung tâm, theo tiêu chuẩn quy định của Bộ Giao thông vận tải; 70% thôn, bản có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa;

80% thôn, bản có nhà sinh hoạt cộng đồng; sắp xếp ổn định 70% số hộ di cư tự phát, số hộ đang sinh sống trong rừng đặc dụng, khu vực xung yếu nguy hiểm; hỗ trợ giải quyết 70% số hộ thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, còn ở nhà tạm so với cuối năm 2020; tỷ lệ độ che phủ rừng duy trì 42%;

Tỷ lệ lao động qua đào tạo khoảng 50%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ từ 10-15%; tỷ lệ học sinh học mẫu giáo 5 tuổi trên 98%, học sinh trong độ tuổi học tiểu học trên 97%, học trung học cơ sở trên 95%, học phổ thông trung học trên 60%; thanh niên 15 đến 35 tuổi đọc thông viết thạo tiếng Việt trên 95%;

Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 95% dân số dân tộc thiểu số; 95% người dân tộc thiểu số biết nói tiếng dân tộc của mình trong giao tiếp; 80% xã, thôn, bản có đội văn hóa, văn nghệ, câu lạc bộ truyền thống; trên 80% phụ nữ được khám thai định kỳ, sinh con ở cơ sở y tế hoặc có sự trợ giúp của cán bộ y tế; giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng thể thiếu cân xuống dưới 15%; tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh 85-90%.

Đến năm 2030: Thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số tăng gấp 2,5 lần so với năm 2026; không còn hộ đói; giảm 80% hộ nghèo so với năm 2020; phấn đấu 80% hộ gia đình có mức sống bằng với mức sống dân cư trong khu vực; trên 85% xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có cơ sở hạ tầng (đường, điện, trường học, trạm y tế, trụ sở làm việc…) đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của người dân; giải quyết căn bản tình trạng di cư tự phát trong đồng bào dân tộc thiểu số; cơ bản hoàn thành chỉ tiêu đề ra trong mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030.

Các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu

Để thực hiện các mục tiêu nêu trên, Chính phủ xác định tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:

Trước hết, xây dựng và ban hành tiêu chí phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi để đầu tư có trọng tâm, trọng điểm.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung và tích hợp hệ thống chính sách dân tộc thành Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn 2021- 2030.

Ban hành cơ chế, chính sách đặc thù trong tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số.

Tăng cường nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; xây dựng cơ sở dữ liệu đồng bộ để phục vụ công tác quản lý.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc.

Tăng cường, củng cố và xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh.

Huy động mọi nguồn lực, trong đó nguồn lực Nhà nước giữ vai trò quan trọng, quyết định để huy động các nguồn lực khác.

Điều chỉnh, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban Dân tộc là đầu mối thống nhất theo dõi, tổng hợp các chính sách dân tộc; tham gia thẩm định chính sách, các dự án đầu tư liên quan đến vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Tiếp tục ban hành chính sách đảm bảo an sinh xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là hỗ trợ đảm bảo ăn, ở của học sinh ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em.

Nghiên cứu cơ chế, mở rộng đối tượng vay vốn của Ngân hàng Chính sách Xã hội đến các dự án sản xuất, kinh doanh, tạo sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số.

Nghiên cứu giải quyết một số vấn đề về thành phần, tên gọi dân tộc, đăng ký hộ khẩu, hộ tịch, đăng ký kết hôn, khai sinh cho con mới sinh đối với các hộ di cư tự phát.

Theo VGP
Xin chờ trong giây lát...

Phân loại chất thải sinh hoạt: Khó khăn từ thực tiễn

Phiên bản di động