Thúc đẩy các dịch vụ ngân hàng xanh tại Việt Nam

10/09/2019 10:44 Tăng trưởng xanh
Hệ thống ngân hàng xanh (NHX) không chỉ phù hợp với các chiến lược phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, chống biến đổi khí hậu của Chính phủ, mà còn phù hợp với xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và hỗ trợ chiến lược tài chính toàn diện của Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước bơm ròng trên 55.000 tỉ đồng ra thị trườngTháng 8/2019, huy động hơn 10,8 nghìn tỉ đồng Trái phiếu Chính phủNgân hàng nhà nước ‘tuýt còi’, cảnh báo 'đua' lãi suất huy động
thuc day cac dich vu ngan hang xanh tai viet nam
Ảnh minh họa

Thời gian qua, hệ thống tài chính - ngân hàng ở Việt Nam đã có bước tiến quan trọng trong việc định hướng phát triển bền vững. Theo đó, hệ thống ngân hàng xanh (NHX) không chỉ phù hợp với các chiến lược phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, chống biến đổi khí hậu của Chính phủ, mà còn phù hợp với xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và hỗ trợ chiến lược tài chính toàn diện của Việt Nam. Điều này nhằm thúc đẩy nhanh quá trình số hóa hoạt động và dịch vụ ngân hàng, trong đó có ngân hàng số, ngân hàng điện tử...

Khái niệm và các dịch vụ NHX

NHX là các hoạt động, nghiệp vụ của hệ thống ngân hàng, nhằm khuyến khích các hoạt động vì môi trường và giảm phát thải các bon. Với khái niệm này, NHX sẽ phải tích cực thực hiện các hoạt động như khuyến khích khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ xanh; áp dụng các tiêu chuẩn môi trường khi duyệt vốn vay; cấp tín dụng ưu đãi cho dự án giảm các bon, dự án về năng lượng tái tạo… Như vậy, NHX cũng giống các ngân hàng khác nhưng có cân nhắc đến yếu tố môi trường, xã hội thông qua việc giảm thiểu lượng các bon theo hướng khuyến khích hoạt động tín dụng xanh và xanh hóa các hoạt động điều hành tổ chức công việc của ngân hàng.

Bên cạnh đó, với mục tiêu thực hiện trách nhiệm xã hội bảo vệ môi trường, các ngân hàng phải tạo ra hệ thống quản lý và cung cấp dịch vụ NHX, thân thiện với môi trường. Sự thành công của ATM đã khuyến khích các ngân hàng thương mại (NHTM) cho ra đời nhiều kênh giao dịch sáng tạo để thay thế cách thức truyền thống như ngân hàng điện tử qua internet, điện thoại di động, quầy giao dịch xanh (cho phép thực hiện gửi rút tiền không dùng giấy), thẻ tín dụng.

Cụ thể: Dịch vụ trực tuyến bao gồm các dịch vụ trả hóa đơn, nộp tiền vào tài khoản, chuyển khoản, sao kê giao dịch và tiết kiệm trực tuyến. Đây là loại hình ngân hàng giúp cắt giảm được lượng giấy, năng lượng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác trong quá trình sử dụng. Các hóa đơn như điện thoại, truyền hình cáp, dịch vụ, thẻ tín dụng đều có thể thực hiện từ xa thông qua kết nối internet từ máy vi tính, hoặc điện thoại thông minh.

Sử dụng các tài khoản kiểm tra xanh: Khách hàng có thể kiểm tra tài khoản của mình trên máy ATM hoặc thông qua màn hình chuyên dụng đặt tại ngân hàng. Đây chính là các tài khoản kiểm tra xanh, thân thiện với môi trường mà ngân hàng có thể cung cấp, khuyến khích khách hàng sử dụng bằng cách đưa ra mức lãi suất hấp dẫn hoặc miễn (giảm) phí sử dụng.

Các khoản vay xanh: Bao gồm cho vay mua sắm thiết bị gia đình xanh, xây dựng tòa nhà thương mại xanh, mua xe xanh… Theo đó, các NHTM cho vay với lãi suất thấp, nhằm hỗ trợ những hộ gia đình mua thiết bị sử dụng năng lượng mới hoặc đầu tư vào các ứng dụng sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Ngân hàng có thể tham gia hỗ trợ bằng cách cung cấp các khoản vay khuyến khích hộ gia đình chuyển đổi sang ngôi nhà mới, thân thiện môi trường và tiết kiệm năng lượng. Một số NHX có thể trở thành đối tác với các công ty cung cấp thiết bị và công nghệ mới bảo vệ môi trường.

Đối với việc cho vay xây dựng trung tâm thương mại xanh, các NHTM có thể cung cấp các khoản tín dụng với thiết kế nhằm giảm thiểu tiêu thụ năng lượng (15-25%), giảm rác thải tiêu thụ và ô nhiễm môi trường so với tòa nhà truyền thống. Với các tòa nhà xanh này, chi phí hoạt động được cắt giảm, lợi nhuận tăng lên và tạo lợi thế khi định giá bất động sản. Đối với khoản vay mua ô tô, NHTM đưa ra gói lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường để khuyến khích khách hàng mua ô tô có hiệu suất sử dụng nhiên liệu tiết kiệm. Sản phẩm này có xu hướng tăng trong những năm gần đây và đặc biệt phát triển tại các nước châu Âu, châu Úc.

Thẻ xanh: Thông qua việc sử dụng thẻ xanh (thẻ tín dụng, ghi nợ), các ngân hàng đã đóng góp kinh phí cho các tổ chức bảo vệ môi trường thông qua mỗi đơn vị tiền tệ chi tiêu bằng thẻ (thông thường là 0,5% giá trị mỗi giao dịch mua bán, chuyển tiền).

Khả năng ứng dụng dịch vụ NHX tại Việt Nam và một số đề xuất

Với sự bùng nổ của internet, điện thoại thông minh, nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử của khách hàng ngày càng tăng. Khách hàng có thể tiếp cận với ngân hàng điện tử mọi lúc, mọi nơi. Có thể nói, dịch vụ ngân hàng điện tử với công nghệ hiện đại đã tiết kiệm được thời gian và giảm chi phí dịch vụ cho khách hàng với nhiều tiện ích như: Chuyển khoản, thanh toán hóa đơn dịch vụ điện, nước, internet, điện thoại, truyền hình cáp, mua vé máy bay, mua hàng trực tuyến, đóng phí bảo hiểm…

Bên cạnh đó, nhu cầu vay vốn của các dự án, hoạt động đầu tư xanh cũng rất lớn. Các dự án, hoạt động đầu tư xanh mà doanh nghiệp (DN) đang thực hiện hoặc dự định thực hiện chủ yếu là dự án xử lý chất thải, rác thải, khí thải; tiết kiệm năng lượng; sử dụng năng lượng tái tạo... Đây là bước đi cần thiết trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang diễn ra trên toàn cầu, nhất là khi Việt Nam được đánh giá một trong những quốc gia có mức độ ô nhiễm cao. Việc phát triển dịch vụ NHX, quản lý hiệu quả rủi ro môi trường và xã hội, kiểm soát tốt hơn rủi ro tín dụng và rủi ro tài sản đảm bảo của từng khoản vay do các vấn đề về môi trường và xã hội tạo nên được xem là một lợi thế cạnh tranh, là cơ hội tăng trưởng và phát triển cho các NHTM trong thời đại mới.

Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam cũng đã có những bước đi đầu trong việc xây dựng chính sách triển khai NHX. NHNN đã hợp tác với IFC xây dựng Bộ hướng dẫn quản lý rủi ro môi trường xã hội cho các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngoài ra, Chỉ thị số 03/2015/CT-NHNN được ban hành vào tháng 3/2015 về việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng cho thấy, NHNN đang thúc đẩy tăng tỷ trọng tín dụng xanh trong hệ thống ngân hàng. Đầu năm 2017, NHNN ban hành Chỉ thị số 01/2017/CT-NHNN tiếp tục nhấn mạnh việc triển khai kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020. Ngày 7/8/2018, NHNN đã ban hành Quyết định số 1604/QĐ-NHTM về việc phê duyệt Đề án phát triển NHX tại Việt Nam nhằm tăng cường nhận thức và trách nhiệm xã hội của hệ thống ngân hàng đối với việc BVMT, chống biến đổi khí hậu, từng bước xanh hóa hoạt động ngân hàng, hướng dòng vốn tín dụng vào việc tài trợ dự án thân thiện với môi trường.

Mặc dù đã ban hành một số văn bản về thúc đẩy tín dụng xanh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, nhưng NHNN mới chỉ có tính chất định hướng, khuyến khích và chưa bắt buộc. Do vậy, vì mục tiêu lợi nhuận, một số ngân hàng vẫn sẵn sàng chấp thuận cấp tín dụng cho các dự án, mà chưa quan tâm đúng mức đến nguy cơ, rủi ro đối với môi trường, xã hội. Hiện NHNN chưa xây dựng hướng dẫn thực thi cụ thể; chưa ban hành được các cơ chế tài chính đặc thù cho dự án thân thiện với môi trường, trong khi các dự án xanh, sử dụng công nghệ thân thiện môi trường lại đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài. Điều này khiến cho chính sách đảm bảo an toàn môi trường chưa được áp dụng bắt buộc và đồng bộ trong hệ thống NHTM. Ngoài ra, nếu ngân hàng đặt ra nhiều yêu cầu về môi trường sẽ làm giảm tính cạnh tranh so với ngân hàng khác (khách hàng có xu hướng tìm đến những ngân hàng với thủ tục cấp tín dụng đơn giản hơn). Bên cạnh đó, thực tiễn thực thi và tuân thủ chính sách, quy định về môi trường ở Việt Nam chưa cao; nhiều DN gây ô nhiễm môi trường vẫn được hoạt động và thậm chí được cấp phép mở rộng sản xuất, do vậy thiếu động lực để thúc đẩy cả ngân hàng và chủ dự án áp dụng các cơ chế đảm bảo an toàn về môi trường.

Theo thống kê của NHNN, hiện mới có 24% dự án xanh được các ngân hàng xây dựng quy trình thẩm định tín dụng, trong đó chủ yếu được thực hiện tại một số hội sở chính và chi nhánh của các ngân hàng như Sacombank, BIDV, VietinBank, Vietcombank, Agribank, SHB, ACB, Viet A Bank, OCB, Nam A Bank… Bên cạnh đó, mới có 26% số ngân hàng xây dựng, triển khai quy trình quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng như HSBC, Standard Chartered, Techcombank, VietinBank. Trong bối cảnh đó, nhằm sớm tạo dựng được hệ thống NHX phù hợp, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng hiệu quả và bền vững, thời gian tới cần chú trọng một số vấn đề:

Đẩy mạnh phát triển các ứng dụng trực tuyến: Các NHTM tại Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển dịch vụ trực tuyến như: Thanh toán hóa đơn điện tử, chuyển khoản, tiết kiệm trực tuyến… Ngoài ra, nên mở rộng các dịch vụ NHX mới như: Cung cấp các khoản tín dụng xanh cho vay với lãi suất ưu đãi để mua, hoặc sửa nhà có sử dụng thiết bị thông minh, tiết kiệm năng lượng.

Xanh hóa hệ thống ngân hàng: Các NHTM tại Việt Nam có thể trực tiếp tham gia BVMT thông qua việc sử dụng thiết bị tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường trong các văn phòng làm việc, chi nhánh ngân hàng; tăng cường sử dụng máy rút tiền tự động ATM năng lượng mặt trời; tổ chức tuyên truyền nâng cao ý thức BVMT cho nhân viên và khách hàng… Đồng thời, xây dựng những chỉ số để đo lường và định lượng tăng trưởng tín dụng xanh; cấp chứng chỉ xanh cho những ngân hàng đạt yêu cầu; xây dựng cơ chế, chính sách tài chính để khuyến khích việc xanh hóa các ngân hàng.

Áp dụng nguyên tắc xích đạo: Báo cáo của IFC năm 2014 cho thấy, đã có gần 80 tổ chức tài chính ngân hàng ở cả các nước phát triển và đang phát triển gia nhập “Nguyên tắc xích đạo” - thỏa thuận không tài trợ trực tiếp những dự án mà chủ đầu tư/dự án không hoặc không thể tuân thủ các chính sách và quy trình về quản lý rủi ro môi trường và xã hội. Việc áp dụng nguyên tắc này giúp Việt Nam tăng cường trao đổi và học hỏi áp dụng các chính sách đảm bảo an toàn của ngân hàng và định chế tài chính quốc tế khác.

Theo Tạp chí Môi trường
Xin chờ trong giây lát...

Phân loại chất thải sinh hoạt: Khó khăn từ thực tiễn

Phiên bản di động